02:32 ICT Thứ hai, 02/12/2024

Giới Thiệu

Thiền sư Nguyệt Khê

  Sư húy Tâm Viên, hiệu Nguyệt Khê, họ Ngô, tổ tiên là người Tiền Đường tỉnh Triết Giang (TQ), lập nghiệp ở Côn Minh tỉnh Vân Nam, truyền được ba đời đến Sư, cha là Tử Trang, mẹ là Lục Thánh Đức, sanh được năm con, Sư là út. Sư yếu đuối nhưng thích học, sớm đã thông minh đĩnh ngộ, theo học...

Danh mục chính

Liên Kết Trang

TS DUC SON
TS NGUYET KHE
HUE NANG

Trang nhất » Tông Phong Tàng Thư » Kinh » Kinh Pháp Hoa

Yếu Chỉ Kinh Diệu Pháp Liên Hoa - phần đầu

Chủ nhật - 07/04/2013 13:13 Xem: 2655
Bài nầy được chúng tôi ghi từ lời giảng của Thầy Duy Lực
GIẢ​I ĐỀ

Kinh này do Tam Tạng Pháp-sư Cưu-ma-la-thập dịch vào đời Diêu Tần. Sao gọi Tam Tạng ? Tam Tạng gồm Kinh, Luật, Luận, nếu thông suốt Kinh-điển gọi là Kinh-sư; thông suốt Giới-luật gọi là Luật-sư, thông suốt Luận gọi là Luận-sư. Ngài Cưu-ma-la-thập thông suốt cả Kinh, Luật, Luận, nên gọi Tam Tạng Pháp-sư. Pháp-sư dịch Kinh rất đúng với ý Phật, được nhà Vua đương thời kính trọng.

Sư đã nói trước rằng : "Khi tôi mất thì hãy đem lưỡi tôi cắt đi, nếu tôi dịch đúng ý Phật thì tất cả đều có thể hoại, ngoại trừ cái lưỡi".

Sau khi Sư tịch đem đi thiêu thì tất cả đều thiêu rụi chỉ còn lại cái lưỡi. Chứng tỏ các Kinh do Ngài dịch không sai.

Diệu là bất khả tư nghì.

Pháp là phương tiện để đạt đến Giác-ngộ cuối cùng.

Liên Hoa (hoa sen) dụ cho Diệu Pháp sanh nơi đất bùn ô uế mà chẳng nhiễm, mùi thơm càng xa càng dịu dàng.

Kinh là xuyên thấu cổ kim.

Diệu Pháp Liên Hoa là một đại Pháp bất khả tư nghì, độ cho chúng sanh ở cõi Ta-bà ác trược được không nhiễm, cũng như Tự-tánh chìm nơi ác thế đã lâu mà được hiện ra thanh khiết như hoa sen. Vì Diệu Pháp chẳng thể suy lường, người đọc khó hiểu, hiểu mà khó tin, tin mà khó hành, hành mà khó chứng. Cho nên nhiều người y văn giải nghĩa đuổi theo lời nói mà chẳng hiểu ý Phật, lại mê lầm hiểu theo mê tín, nghịch với ý chỉ trong Kinh.

Tác dụng của Phật-pháp là muốn chúng sanh đều được thành Phật để giải thoát cái khổ sanh tử, tự giác giác tha. Muốn đạt đến mục đích này thì phải thực hành đúng theo phương tiện của Phật dạy trong Kinh, nhưng người đời nay có một số cho đọc tụng là Trì-kinh, một số thì chỉ nghiên cứu Phật-học để thêm kiến-giải mà không chú trọng sự thực hành thành ra mất hết tác dụng của Phật-pháp.

Trích lục yếu chỉ Kinh này là muốn giải quyết những cái khó kể trên một phần nào, khiến cho người đọc ở chỗ cao sâu mà nắm được căn bản, ở chỗ quảng đại mênh mông mà tìm được trung tâm, để thực hành đúng theo lời Phật dạy cho đến cứu kính thành Phật.

1. PHẨM TỰA.

"Phật phóng hào quang chiếu soi" là một triệu chứng tốt đẹp để báo cho biết Phật sẽ giảng Đại Pháp hy hữu xưa nay chưa từng có. Ý muốn tất cả chúng sanh đều biết kính trọng Pháp. Do trọng Pháp mới có đủ lòng tin, đủ lòng tin rồi mới quyết chí thực hành theo, để đạt đến giác ngộ cuối cùng, vĩnh viễn tự do tự tại.

Dù như vậy mà trong Hội này vẫn có một số Tứ Chúng năm ngàn người, vì chưa đủ lòng tin, nên nghe Phật sẽ giảng Đại Pháp mà lại bỏ đi. Phật cho đó là những kẻ kém phước, Tăng-thượng-mạn.

2. PHẨM PHƯƠNG TIỆN.

Theo căn bản của Phật-pháp chỉ có một Phật-thừa, nhưng theo phương tiện thì giảng ra vô lượng vô biên để thích ứng với căn cơ và trình độ của mọi chúng sanh.

Chúng sanh nào nghe được Pháp này thì sẽ thành Phật.

Chúng sanh do nghe Pháp (đọc tụng cũng như nghe Pháp) mà tín giải là khai Phật-tri-kiến.

Do tín giải mà thọ trì (y theo Chánh-pháp thực hành) là thị Phật-tri-kiến.

Do thọ trì mà chứng đắc là ngộ Phật-tri-kiến.

Do chứng đắc mà thành Đạo gọi là nhập Phật-tri-kiến.

Chẳng lập tất cả tri kiến gọi là Phật-tri-kiến.

Do một Đại-sự nhân duyên này (Nhất-phật-thừa) nên Phật thị hiện trên đời.

Nói một Phật-thừa vì Tự-tánh bất nhị. Tất cả pháp vốn chẳng có tự tánh. Chủng tử Phật do nhân duyên sanh khởi. Pháp nào trụ theo ngôi pháp đó. Cũng như ngọn đèn mỗi giây mỗi khác; ngọn đèn giây thứ nhứt trụ theo ngôi pháp giây thứ nhất, ngọn đèn giây thứ nhì trụ theo ngôi pháp giây thứ nhì; pháp sanh trụ ngôi sanh, pháp diệt trụ ngôi diệt, v.v... tướng thế gian luôn luôn thường trụ như thế.

Muốn thấu suốt nghĩa "Thế gian tướng thường trụ" thì phải chứng ngộ Tự-tánh mới được.

3. PHẨM THÍ DỤ.

Chúng sanh ba Thừa ở trong nhà lửa Tam-giới, cũng như con trẻ ham chơi ngũ dục tài lợi, không sợ cái khổ sanh lão bệnh tử, không chịu ra nhà lửa để tránh khỏi chết thiêu. Phật phải dùng các phương tiện dối gạt (lời nói dối gạt là phương tiện để cứu độ chúng sanh nên không được coi là vọng ngữ) nói bên ngoài có đủ thứ đồ chơi, nào là xe dê, nào là xe nai, nào là xe bò. Hãy mau mau chạy ra mới được tùy ý lựa chọn món đồ chơi của mình ham thích.

Khi tất cả được ra ngoài yên ổn rồi, Phật cho đồng đều mỗi đứa một xe bò lớn (Đại-thừa) vì thật ra chẳng có xe dê, xe nai.

Ở đây chỉ rõ dù lời Phật nói có ba Thừa nhưng kỳ thực chỉ có nhất Phật-thừa mà thôi.

4. PHẨM TÍN GIẢI.

Hàng Thinh-văn Duyên-giác, sau khi được nghe Đại Pháp chưa từng có và thấy Phật thọ ký Vô Thượng Bồ-đề cho Xá-lợi-phất mới biết trước kia được ít cho là đủ, tự cho đã được Niết-bàn, chẳng cầu tiến lên. Đối với Đại-thừa có vô lượng Pháp-tài để thành tựu cho chúng sanh mà tâm họ chẳng ham thích, cũng như cha là Trưởng-giả giàu sang mà con ruột lại bỏ đi ăn xin các nơi, cam chịu nghèo khổ. Dầu đã gặp cha ruột giàu sang nhưng không dám tin nhận, phải trải qua hai mươi năm lao nhọc hốt phẩn, mới phát hiện được tất cả tài sản kia thuộc về mình.

Kinh nói "Cha cho" nhưng sự thật thì Tự-tánh vốn sẵn có, "Cha" là dụ cho Tự-tánh Phật.

5. PHẨM DƯỢC THẢO DỤ.

Pháp-vương phá chấp ra đời, theo tâm ý chúng sanh mà tùy nghi thuyết Pháp. Diệu-pháp khó hiểu khó biết vì Tự-tánh vô hình vô thanh, lời nói chẳng thể diễn tả, ý thức chẳng thể suy lường kẻ có trí nghe rồi thì được tin, được hiểu. Kẻ vô trí nghe rồi vẫn còn nghi ngờ, nhưng cũng được gieo trồng thiện căn.

Ví như mưa xuống khắp nơi, tất cả cây cối và dược thảo tùy theo căn tánh lãnh thọ thấm nhuần mà sanh trưởng.

Như-lai thuyết Pháp cũng vậy, một tướng, một vị, gọi là tướng giải thoát, tướng lìa, tướng diệt. Chúng sanh y theo lời dạy tu hành, cứu kính sẽ được Kiến-tánh thành Phật.

6. PHẨM THỌ KÝ.

Ý của Phật ở phẩm này tỏ rõ rằng : Tất cả đệ tử Phật, bất cứ thượng căn, trung căn, hạ căn chỉ cần đầy đủ lòng tin, thực hành theo đúng phương tiện của Phật dạy, cuối cùng tất cả đều sẽ được thọ ký thành Phật.

7. PHẨM HÓA THÀNH DỤ.

Đại Thông Trí Thắng Phật (Bích-chi-phật) mười kiếp tọa Đạo-tràng thân tâm chẳng động là trụ nơi Niết-bàn Tiểu-thừa (Hóa-thành) chưa đến cứu kính (Bảo-sở) nên : Phật-pháp chẳng hiện tiền, chẳng đặng thành Phật-đạo. Sau này bỏ Niết-bàn Tiểu-thừa tiến lên Đại-thừa mới được thành Phật.

Mười sáu Vương-tử thành Phật ở mười phương thế giới để tỏ rõ "Phật Phật bất nhị". Chư Phật đều thuyết Kinh Pháp Hoa để tỏ rõ "Pháp pháp bất nhị".

Hàng Thinh-văn Duyên-giác ham pháp Tiểu-thừa, chẳng tin Đại-thừa, nên Phật trước lập phương tiện nói Niết-bàn Tiểu-thừa để tâm họ được tạm yên ổn, rồi sau mới dạy pháp Bồ-tát, để đi đến chỗ cứu kính.

Cũng như Đạo-sư (Phật) dẫn dắt chúng Tiểu-thừa đi tìm châu báu vì muốn thuận theo ý của Đại-chúng nên mới biến Hóa-thành lớn để tạm nghỉ, sau mới khuyên chúng bỏ nơi "Hóa-thành" tiến tới nữa, đến nơi "Bảo-sở" (Phật-tánh).

8. PHẨM NGŨ BÁ ĐỆ TỬ THỌ KÝ.

9. PHẨM THỌ HỌC, VÔ HỌC NHƠN KÝ.

Phẩm tám, phẩm chín cũng như phẩm sáu, thất chúng đệ tử cho đến Thiên Long Bát Bộ, kẻ hộ trì Chánh-pháp, chẳng kể thứ lớp tốt xấu, quả vị cao thấp, hữu học (thấp), vô học (cao), nếu được nghe một câu, một kệ của Kinh này cho đến một niệm tùy hỷ đều được thọ ký thành Phật. Vì gieo Chánh-nhân thì sẽ được Chánh-quả.

10. PHẨM PHÁP SƯ.

Phẩm này dạy rằng phải tôn trọng, tán thán, cung kính, cúng dường Pháp-sư. Nhưng Pháp-sư thuyết Pháp cần phải hiểu rõ ý Phật, như nói : "Vào thất Như-lai" là tâm đại bi, "Mặc áo Như-lai" là tâm nhu hòa nhẫn nhục, "Ngồi tòa Như-lai" là tất cả pháp Không (nghĩa là tất cả pháp đều chẳng thật gọi là tất cả pháp Không) rồi mới dùng tâm chẳng giãi đãi vì Tứ-chúng thuyết Pháp. Nếu chẳng hiểu rõ ý Phật mà tự ý vọng thuyết thì sẽ bị cái tội cuồng vọng thuyết pháp.

(Kinh Lăng Nghiêm có nói bốn thứ tội Địa-ngục : Một là phá Phật luật nghi, hai là phỉ báng Đại-thừa, ba là cuồng vọng thuyết pháp và bốn là hư tiêu tín thí).

11. PHẨM HIỆN BỬU THÁP.

Bảo-tháp từ dưới đất nổi lên. Bảo-tháp dụ cho Tự-tánh. Đất dụ cho Tâm-địa. Đa Bảo dụ cho sức dụng của Tự-tánh vô lượng vô biên.

Phật thuyết Kinh này, chúng sanh nào nghe theo lời tu hành thì sức dụng của Tự-tánh tự nhiên từ nơi Tâm-địa hiện ra. Nhưng muốn thấy sức dụng của Tự-tánh trước tiên cần phải chứng ngộ Tự-tánh bất nhị. Cũng như Phật nói : "Phải đợi khi mười phương phân thân Phật tụ tập lại rồi, Phật Đa Bảo mới chịu hiện ra cho thấy". Vậy thì vô lượng phân thân chỉ là một Phật Thích-ca là để thị hiện sự bất nhị của Tự-tánh mà thôi.

Đã được Chứng-ngộ thì vô biên diệu dụng tự hiện. Sự việc ba lần biến uế độ thành Tịnh-độ tức là tỏ bày diệu dụng của Tự-tánh.

Bởi vì Tự-tánh vô hình, vô thanh, lời nói chẳng thể diễn tả, ý thức chẳng thể suy lường, là một Pháp rất khó hiểu, khó tin, nên Kinh nói  : Tất cả việc rất khó đều không khó bằng thuyết Pháp này.

12. PHẨM ĐỀ BÀ ĐẠT ĐA.

Phẩm này chỉ rõ đại Pháp khó gặp. Tiền thân Phật Thích-ca nhiều kiếp làm Quốc-vương, vì cầu đại Pháp mà trải qua vô lượng khổ mới được gặp Thiện-tri-thức, nghe Pháp, phụng trì cho đến thành Phật. Vì muốn phá trừ chấp trước của những kẻ chấp ngôn hại nghĩa, chấp thật thời-gian và nghiệp-chướng nên khai-thị Long-nữ tám tuổi thành Phật, như vậy thì được biết chẳng phải do tu lâu và năm thứ chướng của người nữ cũng chẳng phải có nhứt định.

13. PHẨM KHUYÊN TRÌ.

Tất cả Đại Bồ-tát, A-la-hán cho đến Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni đã được thọ ký rồi đều phát lời thệ trước Phật rằng : "Sau khi Phật nhập diệt sẽ hộ trì Kinh này dù cho bị chúng sanh tàn ác khinh bỉ, chửi mắng, cho đến dùng dao gậy đánh đập, đều cam tâm nhẫn chịu mà khuyên họ biên chép thọ trì đọc tụng, giải thích nghĩa Kinh, theo pháp tu hành".

(Biên chép đọc tụng cũng như nghe Phật thuyết Pháp, thọ trì tức là thực hành đúng như Chánh-pháp).

14. PHẨM AN LẠC HẠNH.

Tư cách của người giảng Kinh này (cũng như các Kinh Đại-thừa liễu nghĩa khác) cần phải an trụ nơi bốn pháp An Lạc Hạnh :

- Đệ-nhất An Lạc Hạnh : An trụ nơi "Hành-xứ" và "Thân-cận-xứ" của Bồ-tát. "Hành-xứ" là phải nhu hòa nhẫn nhục tâm chẳng kinh sợ, quán các pháp như thực tướng (chẳng chấp thật), đối với các pháp đều vô-sở-hành, nghĩa là chẳng hành pháp năng-sở, chẳng hành pháp phân biệt tương đối như nam nữ, hữu vô, v.v... chẳng hành pháp kiến-văn-giác-tri, đối với các pháp đều vô-sở-đắc. "Thân-cận-xứ" là chẳng thân cận các Quí-tộc Quan-trưởng, các tà ma Ngoại-đạo, các kẻ dùng thế pháp lập ngôn viết sách, các kẻ ác đáp ác vấn, kẻ đùa giỡn hung dữ, kẻ thần bí biến hiện, kẻ chăn nuôi săn bắn giết hại. Những người kể trên hoặc khi có đến thì vì họ thuyết Pháp mà chẳng có tâm hy vọng. Còn đối với người nữ thuyết Pháp cần phải trang nghiêm chẳng sanh tưởng ái dục, thu nhiếp tâm ý, gọi là nơi "Thân-cận-xứ" đầu tiên.

Quán tất cả pháp Không, vô danh vô tướng, phi sanh phi diệt, vô lượng vô biên, vô ngại vô chướng, hiểu rõ pháp sanh diệt do nhân duyên điên đảo mà hiện, gọi là "Thân-cận-xứ" thứ nhì.

- Đệ-nhị An Lạc Hạnh : Chẳng khinh mạn Pháp-sư khác, chẳng nói thị phi tốt xấu hay dở của cá nhân, cũng chẳng chỉ tên khen ngợi, cũng không có tâm oán ghét; đối với kẻ nghe Pháp chẳng nghịch ý họ, có người vấn nạn chẳng dùng pháp Tiểu-thừa trả lời, chỉ dùng pháp Đại-thừa giải thích để cho họ được Nhứt Thiết Chủng Trí.

- Đệ-tam An Lạc Hạnh : Chớ khinh bỉ chửi mắng kẻ học Phật và tìm hay dở của họ, đối với Tứ-chúng cầu pháp Tam-thừa chẳng nên làm phiền não họ, cũng chẳng nên hý luận các pháp mà sanh ra tranh luận. Đối với chúng sanh khởi Đại-bi-tưởng; đối với Như-lai khởi Từ-phụ-tưởng; đối với Bồ-tát khởi Đại-sư-tưởng. Vì thuận theo pháp mà bình đẳng thuyết Pháp chẳng nhiều chẳng ít, dù kẻ ưa Pháp cũng chẳng nói nhiều.

- Đệ-tứ An Lạc Hạnh : Đối với người tại gia, xuất gia, sanh đại từ tâm, đối với người chẳng phải Bồ-tát (ở ngoài Đại-thừa) sanh đại bi tâm. Hãy nghĩ rằng họ bị tổn thất lớn, đối với phương tiện thuyết Pháp của Như-lai chẳng thấy, chẳng nghe, chẳng biết, chẳng hỏi, chẳng tin, chẳng hiểu. Dù họ chẳng hỏi, chẳng tin, chẳng hiểu Kinh này, nhưng khi ta được Vô Thượng Bồ-đề, phải dùng sức thần thông trí huệ để dẫn dắt họ, làm cho họ được trụ trong Pháp này, từ từ giải thoát tất cả khổ cho đến cứu kính thành Phật.

15. PHẨM TÙNG ĐỊA DŨNG XUẤT.

Phật Thích-ca ở cõi Ta-bà giáo hóa vô lượng vô biên Bồ-tát và quyến thuộc của Bồ-tát, số lượng chẳng thể dùng thí dụ toán số để biết được. Tất cả đều từ dưới đất hiện ra là dụ cho sức dụng vô biên của Tự-tánh.

Nếu người nào theo đúng Pháp tu hành thì sức dụng vô biên của Tự-tánh tất sẽ được tự hiện nơi Tâm-địa.

Bốn Đạo-sư trong vô lượng ức Quốc-độ chúng Bồ-tát hiệu là Thượng Hạnh, Vô Biên Hạnh, Tịnh Hạnh, An Lạc Hạnh đều là Hạnh-môn phương tiện do Phật thiết lập. Chúng sanh y theo phương tiện ấy mà hành thì được hiển lộ Phật-huệ thị hiện ra sức tự tại thần thông, sức lực Sư-tử mạnh nhanh, sức oai thế mạnh lớn của Tự-tánh.

16. PHẨM NHƯ LAI THỌ LƯỢNG.

Di-lặc Bồ-tát thay mặt Đại-chúng hỏi rằng : "Tại sao Phật Thích-ca đắc Đạo chẳng được bao lâu mà đã giáo hóa được vô lượng Bồ-tát như Phẩm trên ?"

Phật đáp rằng : Ta thành Phật đã trải qua vi trần kiếp, chẳng phải suy lường tính toán có thể biết được (phá khái niệm thời-gian), thường giáo hóa ở cõi Ta-bà, đồng thời cũng dẫn dắt chúng sanh nơi vô lượng Quốc-độ (phá khái niệm không-gian), quán xét căn khí lòng tin của họ mà tùy cơ hóa độ, tự nói danh hiệu tuổi tác chẳng đồng (phá khái niệm số-lượng).

Tại sao vậy ? Vì Phật biết được tướng của Tam-giới như thực, vốn chẳng sanh tử, cũng không kẻ tại thế và diệt độ, phi thực, phi hư, chẳng đồng, chẳng khác. Không pháp nào chấp thật được.

17. PHẨM PHÂN BIỆT CÔNG ĐỨC.

Nghe Phật thuyết phẩm Như-lai Thọ Lượng sanh một niệm tín giải, được công đức không thể hạn lượng. Nếu có người vì Vô Thượng Bồ-đề mà hành ngũ Ba-la-mật, trừ Bát-nhã Ba-la-mật, trong tám mươi muôn ức na-do-tha kiếp, đem công đức này sánh với công đức tín giải trên thì trăm ngàn muôn ức phần chẳng bằng một, huống là kẻ y theo Pháp mà thọ trì. Nên vô số Đại Bồ-tát của mười phương thế giới nghe xong liền được ngộ nhập, y theo căn lực của họ mà hiển hiện vô biên đại dụng của Tự-tánh. Nếu muốn phân biệt công đức, thật chẳng thể kể xiết.

Sự lấy năm trong sáu Ba-la-mật để so sánh công đức mà trừ ra Bát-nhã Ba-la-mật là vì diệu dụng của Bát-nhã bao gồm Pháp-giới, chẳng thể thí dụ được. Như Kinh nói :

Phật-tử trụ thử Địa (Tâm-địa cũng là Tự-tánh Bát-nhã).

Tức là Phật thọ dụng (hưởng sự vui của Phật).

Kinh hành và nằm ngồi (trong Tự-tánh Bát-nhã).

Đều thường ở trong đó (chẳng ở ngoài tâm địa).

18. PHẨM TÙY HỶ CÔNG ĐỨC.

Nghe Kinh tùy hỷ rồi y theo Pháp đã nghe (phải đúng ý Phật), tùy hỷ chuyển dạy cho cha mẹ, bà con, bạn bè v.v... Người thứ hai, thứ ba, nghe rồi cũng tùy hỷ, chuyển dạy cho đến người thứ năm mươi cũng tùy hỷ chuyển dạy như thế.

Nếu có người vì cầu phước báo mà bố thí vật chất cần dùng hằng ngày và vàng bạc thất bửu trong thời gian tám mươi năm, cho bốn trăm vạn ức A-tăng-kỳ thế giới chúng sanh, sau lại dạy họ tu hành, tất cả đều chứng được quả A-la-hán, công đức vô lượng vô biên ấy, nhưng cũng không bằng công đức nghe Kinh rồi tùy hỷ chuyển dạy của người thứ năm mươi. Tại sao vậy ? Vì cầu phước là thuộc pháp hữu vi. Công đức dù lớn đến mức nào, nhưng phước ấy vẫn còn có số lượng, trải qua thời gian lâu sẽ hưởng hết. Còn nghe Kinh tùy hỷ, theo Pháp tu hành thì được chứng Phật-quả, siêu việt số-lượng, phước đức vĩnh viễn không hết được.

19. PHẨM PHÁP SƯ CÔNG ĐỨC.

Thọ trì đọc tụng, biên chép giải thích, theo pháp tu hành đúng như Kinh này thì được công đức của lục căn viên mãn, cho đến thần thông trí huệ, diệu dụng vô biên, cứu kính thành Phật.

Pháp-sư đã được công đức của lục căn viên mãn, dùng tâm vô-sở-sợ thuyết Kinh này, thì dùng nhục nhãn có thể thấy tất cả sắc tướng trong Tam thiên đại thiên thế giới; dùng phàm nhĩ có thể nghe tất cả âm thanh; dùng phàm tỷ có thể ngửi tất cả mùi hương; dùng phàm thiệt có thể nếm tất cả thực vật không kể thơm thối, đắng chát, tốt xấu, bất cứ thức ăn nào cũng biến thành thượng vị. Thân thể thanh tịnh như lưu-ly, tất cả sắc tướng, âm thanh trong đại thiên thế giới đều được hiển hiện trong thân thể, ý căn thanh tịnh thì thực tướng của các pháp đều được thấu đạt, nên có thể dùng muôn ngàn lời nói khéo léo tùy cơ thuyết Pháp khiến cho chúng sanh thích nghe Kinh, được dễ hiểu mà hoan hỷ, tín thọ phụng hành.

20. PHẨM THƯỜNG BẤT KHINH BỔ TÁT.

Thường Bất Khinh Bồ-tát là Tỳ-kheo trong thời Tượng-pháp của Phật Oai-âm-vương, chẳng đọc tụng Kinh điển mà chuyên hạnh lễ bái, tán thán, để đối trị Tứ-chúng Tăng-thượng-mạn. Dù thường bị người nhục mạ, thậm chí bị họ dùng gậy đánh, dùng ngói đá ném cũng chẳng nổi sân, còn lớn tiếng tán thán rằng : "Ta chẳng dám khinh các Ngài vì các Ngài đều sẽ làm Phật".

Đây cũng là một pháp môn trì Kinh (phá ngã chấp) cứu kính được thành Phật. Nếu có người ác khẩu chửi mắng, phỉ báng kẻ trì Kinh, tất phải chịu tội báo lớn. Cũng như Kinh nói : "Ngàn kiếp đọa Vô Gián địa ngục, hai trăm ức kiếp chẳng được nghe Phật-pháp".

21. PHẨM NHƯ LAI THẦN LỰC.

Phật hiện đại thần lực, bày tướng lưỡi rộng dài, phóng vô lượng quang, đều là sức dụng bất khả tư nghì của Tự-tánh, là để tán thán kẻ thọ trì Kinh này và tăng cường lòng tin cho họ, khiến họ quyết chí theo đúng Pháp tu hành thì sức dụng của Tự-tánh mới được hiển hiện.

22. PHẨM CHÚC LỤY.

Phật phó chúc vô lượng Đại Bồ-tát cần phải nhứt tâm truyền bá Pháp này, để phổ biến cho tất cả chúng sanh đều được lợi ích của Phật-pháp.

23. PHẨM DƯỢC VƯƠNG BỔ TÁT BỒN SỰ.

Nhất thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ-tát (tiền thân Dược Vương Bồ-tát) nghe Phật Nhựt Nguyệt Tịnh Minh Đức thuyết Kinh Pháp Hoa liền ham tập khổ hạnh, tinh tấn tu hành, được hiện Nhứt thiết sắc thân Tam-muội. Trước dùng vật chất cúng dường Phật, sau nghĩ chẳng bằng lấy thân cúng dường, liền dùng sức nguyện thần thông mà tự thiêu thân, ánh sáng chiếu khắp tám mươi ức Hằng-hà-sa số thế giới. Chư Phật trong đó đồng thời tán thán rằng : "Đó là chơn thật tinh tấn gọi là Chơn-pháp cúng dường Như-lai".

Trí Giả Đại-sư (Tổ thứ ba tông Thiên Thai) đọc đến câu này liền được chứng ngộ.

Đây tỏ rõ "Ngộ pháp vô sanh" (phá hết ngã chấp) mới được gọi là "Chơn pháp cúng dường". Cũng như Kinh nói : "Ư chư thí trung, tối tôn tối thượng", chẳng phải dùng tất cả vật chất khác bố thí mà có thể so sánh bằng.

"Ta xả bỏ hai tay (dụ cho pháp tương đối) ắt sẽ được thành Phật". Nên nói : "Dùng thất bảo đầy Đại thiên thế giới để cúng Phật, chẳng bằng thọ trì tứ cú kệ của Kinh này".(lìa có, lìa không, lìa chẳng có chẳng không, lìa cũng có cũng không, gọi là lìa tứ cú, cũng là lìa pháp tương đối, cũng là thọ trì tứ cú kệ của Kinh này).

24. PHẨM DIỆU ÂM BỔ TÁT.

Nơi Quốc-độ Tịnh Quang Trang Nghiêm có một vị Bồ-tát tên là Diệu-âm, bạch với Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí muốn đến cõi Ta-bà cúng dường Phật Thích-ca, nghe Kinh Pháp Hoa (Việc này là để tăng cường lòng tin của chúng sanh đối với Kinh này) và gặp Văn-thù Bồ-tát.

Phật nói : "Thân ông bốn mươi hai nghìn do-tuần (Do-tuần có ba thứ : Bốn mươi dặm, sáu mươi dặm, tám mươi dặm).Thân ta sáu trăm năm mươi muôn do-tuần, còn thân Phật cõi Ta-bà thì rất nhỏ. Ông đến cõi ấy chớ nổi ý khinh bỉ". (Thân Phật vốn chẳng có lớn nhỏ, thân của chúng sanh cũng như vậy).


Mời xem tiếp phần cuối => phần cuối

Tác giả bài viết: Liễu Phàm

Nguồn tin: Tông Phong Tàng Thư

Theo dòng sự kiện

Xem tiếp...

Những tin mới hơn