03:07 ICT Thứ hai, 02/12/2024

Giới Thiệu

Thiền sư Đại Huệ

Đại Huệ Thiền-sư (1088 - 1163) đời thứ 12 phái Lâm Tế là một Thiền-sư triệt ngộ, phương tiện cơ xảo rất xuất sắc nổi tiếng từ lúc đương thời cho đến ngày nay. Các bậc Sĩ-phu, Quan lại triều đình từ Thừa-tướng, Thượng-thư... đều quy y học thiền với Ngài và có nhiều người đã được Chứng-ngộ. Ngữ-lục...

Danh mục chính

Liên Kết Trang

TS DUC SON
HUE NANG
TS NGUYET KHE

Trang nhất » Tông Phong Tàng Thư » Sách tham khảo » Tâm Linh Và Khoa Học

Tâm Linh Và Khoa Học

Chủ nhật - 07/04/2013 13:39 Xem: 4309
Tài liệu tham khảo trong sách nầy bao gồm các kinh Đại-thừa liễu nghĩa, những tác phẩm về khí công và công năng đặc dị Trung-quốc, đồng thời kết hợp triết lý Đông-phương với vật lý khoa học Tây-phương mà đưa ra lý luận khoa học mới về vũ trụ Vô-cực, cũng là giải phẩu Tâm-linh trong Phật-pháp

Phần đầuphần hai, phần cuối, phụ lục 1, phụ lục 2

LỜI TỰA

Sự phát triển của khoa học hiện đại đã tiến tới rất cao, nhưng chỉ hướng về mặt công năng hiển tánh mà phát triển, đối với mặt công năng ẩn tánh, hình như chẳng biết gì cả, vì chẳng biết nên phủ nhận sự tồn tại của nó.

Kỳ thật, cấu tạo sinh mạng của con người chia làm hai bộ phận : Thể xác và tinh thần. Như thấy hình ảnh trong gương của ta, chỉ là bề ngoài của ta; giải phẫu sinh lý của ta chỉ là thể xác của ta, đều chẳng phải chân thật ta. Chân thật ta là thể tinh thần, cũng gọi là tâm linh. Trí tuệ của thể tinh thần thông qua công năng của ngũ giác quan (xem, nghe, ngửi, nếm, tiếp xúc) thì có thể cảm nhận hiện tượng bên ngoài.

Vật lý khoa học hiện đại đều lấy ngũ giác quan làm chủ, những máy móc tối tân chỉ là khuếch trương thêm sự cảm nhận của ngũ giác quan, nghĩa là có thể nhìn xa hơn và nghe xa hơn mà thôi, nhưng trong thể tinh thần còn có bộ phận cảm nhận siêu ngũ giác quan ẩn bên trong, nhà khoa học lại phủ nhận sự tồn tại của nó, ấy cũng là phạm vi nhận thức hợp lý của người địa cầu trong không gian ba chiều.

Lập trường của chúng tôi biên soạn quyển sách này là muốn kiến lập lý luận toàn diện về vũ trụ vô cực, mở mang không gian ba chiều tiến lên không gian bốn chiều, cho đến nhiều chiều v.v…

Nghĩa VÔ CỰC là gì ? Ví như con số "0", người đời nói "Bằng như số 0", cho là tất cả đều không còn. Thật ra số 0 này chẳng phải hoàn toàn không có, giá trị của nó có thể phóng lớn đến vô cực, cũng có thể rút nhỏ đến vô cực.

Phóng lớn như thế nào ? Giả sử đơn vị của nó là 1, thêm vào con số 0 thì giá trị của số 0 này là 9, 1+9=10; nếu đơn vị của nó là 10, thêm vào con số 0 thì giá trị tăng đến 90, 10+90=100; nếu đơn vị của nó là 100, thêm vào con số 0 thì giá trị của nó là 900, 100+900=1000… Theo đó suy luận, giá trị của con số 0 này có thể phóng lớn đến vô lượng vô biên vô cực.

Rút nhỏ như thế nào ? Giả sử đơn vị là 1 đồng, để con số 0 này trước số 1, rút nhỏ lại thành 1 cắc, tức 0,1 đồng; để thêm con số 0 nữa lại rút nhỏ thành 1 xu, tức 0,01 đồng. Cứ rút nhỏ như thế, cũng có thể rút nhỏ đến vô cực vậy. Lý phóng lớn rút nhỏ kể trên tức là cơ bản của lý luận vô cực.

Lại, ánh sáng chiếu trên không gian có thể chứng minh sự tồn tại của không gian, nhưng ánh sáng chiếu trên thời gian lại chẳng thể chứng minh sự tồn tại của thời gian (vì ngũ giác quan chẳng thể phát hiện). Nhưng thật tế thời gian luôn luôn ẩn trong không gian, điều này chẳng ai có thể phủ nhận, đây cũng là luận cứ về ẩn tánh vật lý học của sách này.

Theo ngài Nguyệt Khê (Thiền-sư kiến tánh tịch năm 1965 tại Hồng Kông) thì triết lý vũ trụ gồm 4 lớp khác biệt : Duy Vật, Duy Tâm, Tâm Vật Hợp Một và Phi Tâm Phi Vật. Lý luận kiến lập của quyển sách này chỉ có thể diễn đạt đến cảnh giới "Tâm vật hợp một", đối với cảnh giới "Phi tâm phi vật" chẳng thể diễn đạt bằng lời nói văn tự, cần phải y theo phương pháp tu trì mới có thể tự nghiệm chứng. Nếu độc giả muốn đạt đến cảnh giới Phi Tâm Phi Vật, nhất định phải đích thân tu chứng mới được.

Chúng tôi kiến lập lý luận khoa học mới này là căn cứ theo trí huệ của các bậc hiền triết thế giới từ xưa nay làm nền tảng. Đọc giả nếu có sự phát hiện tối tân hơn, chúng tôi xin vui lòng thọ giáo, đồng thời cùng biện chứng cho sáng tỏ thêm.

Thích Duy Lực.

NỘI DUNG

Vũ trụ hình thành bởi thời gian, không gian và số lượng, bao gồm  :

A/ Vật lý sinh mạng công trình học

B/ Triết lý sinh mạng công trình học.

A/ VẬT LÝ SINH MẠNG CÔNG TRÌNH HỌC

Thuộc sinh mạng hữu hình (thể xác), là vật chất thật tánh, có thể dùng lý luận Logic biện chứng. Động lực gồm lực hấp dẫn vạn hữu, động lực hạt tử, làn sóng điện, làn sóng ánh sáng. Tốc độ cao nhất là tốc độ ánh sáng, thể tích chiếm không gian từ một chiều đến ba chiều (dài, rộng, cao), ngũ giác quan cảm nhận được, là văn minh của người địa cầu hiện đại.

B/ TRIẾT LÝ SINH MẠNG CÔNG TRÌNH HỌC

Sinh mạng vô hình (thể tinh thần), thuộc vật chất hư tánh, lý luận Logic không thể biện chứng, động lực gồm lực bài xích vạn hữu, động lực hạt tử, động lực hư tử, làn sóng tin tức, tốc độ thấp nhất là tốc độ ánh sáng, chẳng có thể tích, thể hiện từ không gian bốn chiều cho đến nhiều chiều… Ngũ giác quan chẳng thể cảm nhận, dùng kỹ thuật khí công và công năng đặc dị có thể chứng thật sự tồn tại khách quan của nó, là văn minh của người thái dương hệ.

Kỳ thật trong sinh mạng của người địa cầu có cá thể tương đối của sự ẩn hiển hư thật, tất cả sinh vật đều có hiện tượng này. Vạn sự vạn vật trong thiên nhiên đều như thế, đồng thời đều có linh tánh, là sự hiển hiện của tâm lực. Đối với vật thể phi sinh mạng, cũng có mật mã đơn giản và thấp kém của nó, ấy cũng là cơ nhân của nó để hiển thị bộ phận công năng cực nhỏ của tâm lực.

Trong thiên nhiên, từ vật thể nhỏ đến thiên thể lớn, đều sẵn có những mật mã, làn sóng tin tức và tần số mỗi mỗi khác biệt của nó. Mỗi vật thể đều có mật mã riêng biệt để hình thành chất lượng của nó, cũng như khi chúng ta nhìn thấy một tảng đá xấu xí thô bỉ thì cảm thấy không thích, nếu nhìn thấy một hòn sỏi xinh xắn nhiều màu sắc thì sanh ra tình cảm ưa thích, đây là kết quả do làn sóng mật mã khác nhau của họ khởi lên sự cảm ứng với mật mã tin tức của chúng ta.

Trong thời gian không gian, lúc nào chỗ nào đều sẵn có những mật mã và làn sóng tin tức của mỗi sự vật, chỉ là sự phức tạp, đơn giản, tốt xấu chẳng đồng mà thôi. Những sự vật kia tuyệt đối chẳng phải tồn tại một cách cô độc, mà lại là ảnh hưởng với nhau và cùng tồn tại.

PHÂN TÍCH SINH MẠNG ẨN HIỂN TRONG VŨ TRỤ VÔ CỰC

VŨ TRỤ VÔ CỰC

Ẩn tánh

Hiển tánh

Thời gian

Không gian

Bốn chiều

Ba chiều

Hư tử

Thật tử

Tinh thần

Thể xác

Khái niệm làn sóng

Nguyên tố

Tần số

Thể tích

Làn sóng tin tức

Trọng lượng

Xích lực

Dẫn lực

Tin tức hư thể

Hành tinh thật thể

Công năng ẩn tánh

Công năng hiển tánh

Siêu tốc độ ánh sáng

Thấp hơn tốc độ ánh sáng


SINH MẠNG VÔ CỰC

Tâm linh

Thể xác

Trình tự mật mã

Kết cấu tế bào

Chẳng thể thấy

Có thể thấy

Chẳng chiếm không gian

Chiếm không gian

Trình tự hư thể

Vật chất thật thể

Vận động ý niệm

Vận động cơ thể

Trí lực

Thể lực

Siêu ngũ giác quan

Ngũ giác quan

Kinh lạc

Thần kinh

Hoạt động hư tử

Hoạt động thể xác

Tổ hợp hư tử

Tổ hợp thật tử

Năng lượng ẩn

Năng lượng hiển

 ĐẶC TÍNH CỦA MẬT MÃ TINH THẦN

Chúng ta cần phải thăm dò cá tánh độc lập và cộng tánh của sinh mạng. Mật mã trong thể tinh thần của con người gồm ba thứ hiện tượng, ấy là tánh sẵn có, tánh tương đối và tánh khả biến.

Nếu như trong mật mã sinh mạng của ông ghi rằng đến năm 40 tuổi sẽ được làm Bộ trưởng, ấy thuộc tánh sẵn có; nhưng đến khi đó không làm Bộ trưởng lại làm một chức vụ nào đó ngang hàng với Bộ trưởng, gọi là tánh tương đối; nếu ông vì ham tiền của mà làm nhà kinh doanh phát tài, chẳng làm Bộ trưởng hay quan chức gì, thì gọi là tánh khả biến. Do đó, triết lý Đông phương nói "Mưu sự tại người, thành sự tại trời", đó là sự biện chứng của khả biến luận và túc mạng luận.

Mật mã tinh thần dù là sẵn có từ lúc sanh ra, nhưng cũng có thể biến đổi và tu sửa.

 PHƯƠNG PHÁP TU SỬA MẬT MÃ TINH THẦN

Nếu như mật mã tinh thần của ông (tức số mệnh và năng suất) không lý tưởng, ông có thể y theo luận khả biến tìm cách tu sửa mật mã. Như những hoạt động "Cầu tài cầu thọ, cầu tai qua nạn khỏi" theo phong tục dân gian, như phép thuật của Đạo-giáo, bùa Chú của Mật-tông… hình như cũng có công hiệu, nhưng vì họ trái ngược luật nhân quả, luôn luôn bị xem là hiện tượng mê tín mà thôi.

Nay chúng tôi đề xuất phương pháp sửa đổi mật mã tinh thần như sau  :

1/ Trong cuộc sống hàng ngày, hay làm những việc lợi ích cho xã hội loài người, chẳng làm việc ích kỷ hại người, có thể mỹ hóa thân tâm (khiến thân tâm tốt đẹp hơn).

2/ Tu trì luyện công, nghĩa là tâm trong sạch thì trí sáng tỏ, có thể tịnh hóa tinh thần (tẩy sạch ô nhiễm nơi tinh thần).

3/ Minh tâm dưỡng tánh, giảm bớt dục vọng, có thể tu sửa mật mã cho tốt.

TRUYỀN ĐẠT TIN TỨC NƠI MỘT NIỆM
(Niệm khởi truyền đến, chẳng có số lượng của thời gian)

- Khái niệm của tốc độ quãng nghĩa :

Đối với tốc độ của vật chất, khu vật tốc độ có thể chia ra làm 3 lớp : Nói một cách cụ thể là từ nơi khái niệm vật chất hiển tánh sanh ra tốc độ ẩn tánh (siêu tốc độ ánh sáng), ấy gọi là khái niệm tốc độ quãng nghĩa.

Ba lớp tốc độ quãng nghĩa :

1. Tốc độ hiển tánh => Do vật chất vận động hiển tánh sanh => Tốc độ ánh sáng là tốc độ cao nhất.

2. Tốc độ trung tánh => Tốc độ vận động của quang tử (làn sóng ánh sáng) => Tốc độ bằng tốc độ ánh sáng.

3. Tốc độ ẩn tánh => Do tốc độ vận động ẩn tánh sanh => Tốc độ ánh sáng là tốc độ thấp nhất.

Lý luận Linh Học cho là có sự tồn tại chân thật của làn sóng tin tức là một thứ vận động thuộc tánh hư tử, siêu việt tốc độ ánh sáng.

- Đặc tính của siêu tốc độ ánh sáng :

Tất cả hư tử mỗi mỗi đều có sự vận động siêu tốc độ ánh sáng khác nhau, cũng như tất cả thật tử mỗi mỗi đều có sự vận động theo phương thức chiều hướng (chiều thẳng hoặc cong) khác nhau nơi không gian; cũng vậy, các hư tử vận động theo phương thức tự xoay tự rung động khác nhau thời gian.

Nói hư tử là chẳng có sự cấu tạo trong nội bộ, nghĩa là “Cực tiểu vô nội, chẳng có bề trong”, chẳng thể xếp hàng từng cái và có kẻ hở, chẳng thể phân chia theo toán học, chỉ như khái niệm tổng hợp hư hạt tử thành một “Hư thể toàn diện” của thời gian, vì họ chẳng có khái niệm không gian, chẳng thể vận động theo chiều hướng, nên chẳng có số lượng thời gian.

- Hành lang không gian :

Nói “Vận động theo chiều thẳng” về không gian hiển tánh của thật hạt tử là lời tương đối, thật ra đều vận động theo chiều cong. Bởi vì, địa cầu một mặt tự xoay, một mặt xoay vòng theo mặt trời. Vậy quỹ đạo vận động của tất cả hạt tử giữa hai điểm trên địa cầu, chẳng thể là chiều thẳng, mà là một đường cong phức tạp. Chúng tôi gọi những đường cong này vận động này là hành lang không gian.

Vật thể vận động nơi hành lang không gian, từ nhỏ như hạt tử cho đến lớn như ngân hà, đều có vị trí di động, có quỹ đạo, có điểm khởi và điểm cùng có tốc độ (tốc độ hiển tánh dưới tốc độ ánh sáng).

Các hạt tử vận động trong quỹ đạo nơi hành lang không gian, có thể chéo nhau, trùng điệp, đụng chạm; lúc tốc độ vận hành có thể chướng ngại với nhau mà chẳng thể xuyên thấu lẫn nhau, có thể đóng cục và tan nát.

Hành lang không gian thấy được, mò được, có thể thăm dò, đo lường điều khiển bằng máy móc. Khoa học hiện đại với hành lang không gian đã nghiên cứu rất nhiều rất sâu, ấy là Vận Động Lực Học.

- Đường ngầm thời gian :

Tất cả hư hạt tử vận động nơi thời gian ẩn tánh, chẳng vận động theo đường cong và chỉ rung động và tự xoay, chẳng có cấu kết nội bộ, nghĩa là “Kỳ tiểu vô nội”; vô số hư tử đầy khắp vũ trụ, hợp thành một quả cầu thời gian (khái niệm) “Kỳ đại vô ngoại”. Hệ ngân hà cũng là vô trụ vô cực hổn độn, vì hư tử chẳng có vị trí di động, chẳng có quỹ đạo vận động, chẳng điểm khởi và điểm cùng. Nhưng lại có khái niệm tốc độ là tốc độ rung động tự xoay theo ẩn tánh, mấu chốt của nó là truyền đạt tin tức trong một niệm, ấy gọi là đường ngầm thời gian.

Đường ngầm thời gian chẳng thể diễn đạt, như sự cự ly xa gần của không gian.

- Đặc tính của đường ngầm thời gian :
Đường ngầm theo tiếng Hán là “Thụy đạo”, đạo này là đạo không thực thể (hư), nói đạo mà “Chẳng có đạo”, là cái đạo “Phi thường đạo”, nhưng lại có khái niệm thời gian.
Nói “Đường ngầm thời gian” là có chỉnh thể (toàn diện), có xuôi ngược, có làn sóng như mạng lưới, chẳng cần trải qua quá trình trung gian (chẳng quá trình). Do đó, chỉ có thể lý giải thành: truyền đạt tin tức đến cảnh giới thời gian theo ý muốn trong một niệm.
Việc truyền đạt tin tức trong một niệm nơi vũ trụ này là có sự tồn tại khách quan (tức đường ngầm thời gian), những nhà khí công và người có công năng đặc dị có thể quan sát quá khứ và dự đoán vị lai, nhận biết những sự việc xa xôi, đối với những sự việc chưa từng xuất hiện, cũng có thể dùng tâm linh nhìn thấy. Ý niệm tâm linh đi lại là thông qua đường ngầm thời gian, trong một niệm thông suốt những cảnh giới và thời đại mà khoa học hiện đại chưa bao giờ đạt đến.

- Sự truyền đạt của ý niệm lực:

Ý niệm lực là tổ hợp tin tức của hư tử, nó truyền đạt tin tức nơi một niệm, hư thái vận hành trong đường ngầm thời gian, siêu tốc độ ánh sáng. Do đó, chẳng thể xa gần, cổ kim, cảnh giới ẩn hiển hư thật đều có thể nhanh chóng đi lại, tự do khứ lai trong một niệm.

Sự hình thành ý niệm năng của ý niệm lực thật kỳ lạ, có thể xuyên qua linh giới, điều khiển sự vật trong thời đại khác nhau của hai thế giới ẩn và hiển. Người xưa nói : “Thượng hạ tam thiên niên, tung hoành ngũ vạn lý”, cũng giao thông tin tức trong một niệm.

Đây dù là lý luận mới sáng lập, nhưng những nhà khí công đạt mức kỹ thuật đã thể hiện dấu tích bước đầu truyền đạt tin tức trong một niệm. Đối với lãnh vực vận động về trạng thái hư ẩn này, hy vọng tương lai có thể hướng về chiều sâu phát triển, đối với làn sóng tin tức, có thể chủ động điều khiển sự thu phát và phiên dịch.

- Vật lý ẩn tánh :

Sự thăm dò thế hệ, quy luật và nội dung của những vật chất quãng nghĩa về năng lượng và tốc độ… sẽ bắt đầu từ số 0, từ ẩn đến hiển, từ hư đến thật, từ nguyên lý đến cảm nhận, từ suy tư đến lãnh hội, từ trong khoa học hiện đại bước ra, kiến lập môn học thế hệ mới của khoa học vô cực.

Môn học này ngang hàng với khoa học vật lý hiện đại, hư thật chia lối cùng bước, nên chúng tôi gán tên gọi là Ẩn Tánh Vật Lý Học. Môn học này từ góc độ của lý luận triết học nhìn thấy tất cả bản chất của mọi sự vật dù bất khả tư nghì, cũng có thể phân tích giải phẩu bằng tính cách phiên dịch.

Chúng tôi sáng lập môn học thế hệ này, ý muốn khuyến dụ nhiều hiền triết có trí tuệ cao siêu, cùng nhau mở mang lý luận về không gian bốn chiều để tiến vào Ẩn Tánh Vật Lý Học.

- Phiên dịch sự huyền bí của ẩn tánh :

Ẩn Tánh Vật Lý Học sẽ tuyển dụng vật lý hiện đại làm nền tảng tham khảo đối chiếu, lấy Tương Đối Luận của ông Einstein làm bước thang sơ khởi và khuếch trương khái niệm của Tương Đối Luận để kiến lập khái niệm Quãng Nghĩa tương đối, đem những vật lý lượng như sanh mạng, vật chất, năng lượng, tốc độ, tư duy, thời gian, không gian… đặt trong học thuyết “Ẩn hiển song toàn” mà định nghĩa lại từ đầu, cả gan thăm dò và mô tả theo khái niệm mới, công thức mới, phép tắc mới, nhờ vật lý ẩn tánh phiên dịch nguyên lý vô cực.

Việc này chẳng những có thể phát huy môn khí công học, còn có thể xúc tiến sự tiến trình cách mạng khoa học và kỹ thuật mới.

SIÊU NGŨ GIÁC QUAN TIẾN VÀO LINH GIỚI

- Thế nào là Linh-giới :

Hai chữ Linh Giới có ý nghĩa học thuật rất quan trọng trong môn học Linh Học và Khí Công Học. Ranh giới giữa vật chất và Linh Học gọi là Linh Giới Điểm, cũng gọi là Lâm Giới Điểm. Trong ẩn tánh vật lý học, đối với ranh giới của sự chuyển hóa giữa hai thứ vật chất hiển tánh (thật tử) và làn sóng tin tức ẩn tánh (hư tử), chúng tôi gọi là vật chất trung tánh trên Linh-giới. Quang tử (làn sóng ánh sáng) có hai lớp tính chất ẩn và hiển, là vật chất trung tánh của Lâm Giới Điểm.

Tóm lại, tiến hành sự chuyển hóa (biến đổi với nhau) của vật chất ẩn hiển phải thông qua Linh-giới, nên quang tử là cầu nối giữa hai thế giới hư và thật, gọi là Vật Lâm Giới hoặc Vật Linh Giới (tốc độ ánh sáng).

Nếu được vào cảnh giới ánh sáng thì có thể đứng trên Linh-giới nhìn thấy 2 thế giới ẩn và hiển.

- Khái niệm về Linh-giới :

Tình trạng trong thế giới ẩn tánh là thế nào ? Vì ngũ giác quan chẳng thể cảm nhận, luôn cả nhà khoa học cũng không thể hiểu được, lại còn phủ nhận sự tồn tại của nó. Thật ra, chỉ có kỳ nhân, siêu nhân dùng công năng ẩn tánh mới có thể khám xét sự tồn tại chân thật của nó.

Vậy nơi thế giới ẩn tánh có đặc điểm gì ? Chúng ta có thể nhận thức theo một khái niệm đại khái chăng? Có thể được, ấy là dùng quan điểm đối xứng, đối lập, đối ứng với thế giới hiển tánh, luôn luôn ở nơi hai thế giới ẩn hiển giao biến chuyển hóa mà lập luận, nghĩa là có thật tử thì sẽ có hư tử, có thấp hơn tốc độ ánh sáng thì có siêu tốc độ ánh sáng, có cơ điện lực hiển tánh thì có ý niệm lực ẩn tánh, có năng lượng hiển thì có năng lượng ẩn, cho đến có sinh mạng thể xác thì có sinh mạng tinh thần. Người địa cầu là do hai thứ sinh mạng này kết hợp mà thành, tức là hai thứ hiện tượng sinh mạng đã sẵn của không gian bốn chiều đều bị nhốt trong không gian ba chiều, mà sống theo phương cách tự bế tắc trong thế giới hiển tánh.

Do đó, chúng ta biết người địa cầu vốn có thể tiến vào thế giới ẩn tánh, chỉ cần họ biết cách tự đập bể trạng thái tự bế tắc thì sẽ kích phát được sự cảm nhận Linh Tánh siêu ngũ giác quan.

- Ngũ giác quan khó vào Linh-giới :

Hình thức sanh mạng của loài người, bên trong thường tự bế tắc, sự vật bên ngoài toàn nhờ sự cảm nhận của ngũ giác quan, nếu không có ánh sáng thì công năng của ngũ giác quan chẳng thể tiến hành. Nhưng ngũ giác quan lại chẳng có cách để tiến vào cõi ánh sáng tức Linh-giới.

Khoa học kỹ thuật hiện nay có thể chế tạo kính hiển vi điện tử, dùng máy móc tối tân có thể thấy được cao phân tử, cho đến hạt nguyên tử, nhưng xem điện tử và quang tử thì chưa có khả năng. Vã lại, dù máy móc có thể thấy được nó, chẳng thể cho là biết được nó; thế giới vi quán mà những phim ảnh chụp được, đối với người dùng ngũ giác quan để cảm nhận vẫn là bất khả tư nghì, giống như con khỉ xem tivi chỉ tỏ ra mặt ngẩn ngơ mà thôi (không hiểu tại sao).

Sự cảm nhận của ngũ giác quan, luôn cả máy móc để phụ giúp thêm cho sự cảm nhận, đều thuộc về thứ lớp tương đối thấp kém. Cho nên, khó tiến vào những thế giới vi quán, hoằng quán và vũ quán. Vì họ chẳng vào được Linh-giới vậy.

- Siêu ngũ giác quan được tiến vào Linh-giới :

Phương pháp để tiến vào Linh-giới chẳng phải không có, ấy là sử dụng sự cảm nhận siêu ngũ giác quan. Nghĩa là không cho tin tức bên ngoài thông qua ngũ giác quan xử lý mà đi thẳng vào Linh-giới. Phương thức này lại trực tiếp và nhanh chóng, nhưng việc này đối với loài người còn chưa có khả năng, vì khả năng sẵn có xưa kia đã tiềm ẩn lâu rồi.

Sự cảm nhận của ngũ giác quan thuộc hiển, hiển thịnh thì ẩn suy; cảm nhận trực giác thuộc ẩn, nhưng đã tiềm tàng thoái hóa, có khi còn không bằng một số động vật. Sự tiếp thụ tin tức thiên nhiên của nó còn nhạy cảm hơn con người, ví như con kiến có thể dự đoán lượng mưa trong năm quá nhiều mà đem ổ trên cây, con dê con bò sẽ biết trước ngày hôm sau sẽ có bão tuyết, rán ăn cho no mà không chịu sớm vào chuồng; còn con người dùng máy móc để dự báo thời tiết lại còn chưa chính xác.

Như thế chứng tỏ sự cảm nhận bằng trực giác của con người không nhạy bằng động vật. Nhiều loại động vật vẫn còn giữ được một số công năng đặc biệt, không hoàn toàn ỷ lại ngũ giác quan. Như loài cá biết lội về xứ mình, chim bồ câu bay bao xa cũng biết đường về, con chó ghi nhớ nhà xưa ngàn dặm tìm đường về, con ngỗng trời có bản lĩnh đặc biệt về hướng dẫn đường bay… Đối với chúng có những khả năng và bản lãnh gì để tiến vào Linh-giới thì chúng tôi chưa có thể kết luận, chỉ có thể đề ra một số câu hỏi :

1. Tại sao con gà trống không cần xem đồng hồ mà gáy đúng giờ ?

2. Tại sao con rắn không cần nhiệt kế mà đóng miên đúng thời tiết ?

3. Tại sao con ếch không cần thông báo, đôi lúc hàng ngàn hàng vạn tập họp lại hoạt động quần thể ?

4. Tại sao một vài động vật, như con cá kình, mao ngưu tiến hành tự tử tập thể ?

- Kỹ thuật khí công có năng lực siêu ngũ giác quan :

Nói “Pháp vô định pháp”, nghĩa là qua sự tu luyện có thể đổi pháp cố định thành vô định, công năng đặc biệt phải nhờ sự tu luyện mới có thể hiển hiện. Cũng như nhà khí công tu luyện lâu ngày có thể từ cảm nhận của ngũ giác quan chuyển vào cảm nhận của siêu ngũ giác quan. Ngày nay hiện tượng này đã được phổ biến tại Trung Quốc.

- Kỳ quan về khám bệnh bằng Khí-công :

Về việc phát khí khám bệnh của nhà khí công, hoạt phát ngoại khí, hoặc dùng ý niệm lực, hoặc dùng tin tức phát khí rồi thu hồi phản ứng của bệnh nhân… Cũng có một số người có công năng đặc biệt chẳng nhờ phát khí, bổng nhiên ngộ biết trực tiếp nói ra bệnh trạng, cũng thường đạt đến mức độ chính xác mà khiến người cảm thấy bất khả tư nghì.

Kỳ quan là kỳ quan, đằng sau kỳ quan vẫn có nghĩa lý, bất quá lý này chưa được sáng tỏ mà thôi.

- Kỳ quan Thông Linh : 

Công năng cao cấp có thể siêu việt không gian ba chiều, thông qua Linh-giới tiến vào không gian bốn chiều, gọi tắc là “Thông Linh”.

Kỳ thật, nơi dân gian cũng có một số người tự có khả năng thông linh, chẳng cần thầy truyền, chẳng cần khổ học, hoặc thình lình đắc sự cảm ứng mà xuất hiện công năng chẳng nhờ luyện tập. Những người này có sự tự biết, vô lý tự thông, văn hóa kém mà công năng cao. Sự công năng này chẳng thể truyền dạy cho người học, chẳng thể cấm tuyệt, cũng chẳng thể đề xướng.

Cũng có một số Đạo-sĩ ở trong núi rừng dùng thần công thông ẩn, có thể cùng những sinh linh trí tuệ không gian ẩn tánh trao truyền tin tức với nhau. Việc trao truyền tin tức này giống như tình trạng mộng du hoặc trạng thái thôi miên, âm thầm hoạt động bằng tinh thần.

Hiện tượng kể trên đủ chứng tỏ sự tồn tại xác thật của hai thế giới ẩn và hiển, đồng thời chỉ rõ. Đối với thế giới ẩn tánh chỉ có dùng phương thức siêu ngũ giác quan mới được đi vào.

Vì nhà khoa học hiện đại chẳng chấp nhận tu luyện, chỉ nhờ ngũ giác quan để cảm nhận sự vật, nên chẳng thể tiến vào Linh-giới. Do đó, chẳng thể nắm vững phương pháp nghiên cứu về linh học (siêu ngũ giác quan), cũng không giải tỏa được khuôn khổ ràng buộc của khoa học hiện hữu.

Theo quá trình tiến hóa thiên nhiên thì hiện tượng bị động và chướng ngại khoa học hiện tại sẽ kéo dài không bao lâu nữa, vì xuất hiện của công năng đặc biệt và nhà khí công, đã dự báo quy luật thông thường của tư duy hiển tánh sẽ phát triển đến sẹt ra tia lửa của tư duy linh cảm ẩn tánh. Một khi công năng nhảy vọt, hình thành phương pháp đầy đủ công năng đặc biệt, thì kỳ nhân, siêu nhân sẽ càng ngày càng đông.

 Trong tương lai, người được tiến vào Linh-giới sẽ bao gồm những nhà khoa học và triết học. Khi ấy, kỹ thuật chuyển hóa ẩn và hiển sẽ được nắm chắc mà bắt đầu “Thông linh”, tức là nhanh chóng trao truyền tin tức vũ trụ. Do đó, chúng tôi thống nhất tất cả tên gọi và đặt ra một tổng danh từ gọi là Vũ Trụ Công.

Vũ Trụ Công sẽ siêu việt Thông Linh Công, Thông Ẩn Công, dưới sự hướng dẫn của khoa học kỹ thuật vô cực, mạnh dạn điều khiển kỹ thuật siêu ngũ giác quan, mà tiến vào thời đại mới của khoa học vũ trụ.

THỜI GIAN CHUYỂN HÓA THÀNH KHÔNG GIAN

- Thời gian biến không gian :

Thời gian có thể biến thành không gian ư ? Ấy là bắt đầu từ tư tưởng kỳ lạ của ông Einstein. Theo kết luận của ông thì cho là lý luận này có tính khả thi, nhưng cần phải đặt ra một “Mức lượng” thích đáng cho sự chuyển biến, gọi là “Mức lượng thời không”. Việc này đối với người thường rất khó lý giải : Cái thời gian chẳng thể thấy mà được biến thành không gian có thể thấy chăng ? Thật là tư tưởng kỳ lạ khó tưởng tượng.

Trong thế giới không gian ba chiều, nơi cảm nhận của ngũ giác quan, trong hoàn cảnh có thể thấy rõ địa cầu, chẳng thể đem thời chuyển biến thành không gian, loài người không có khả năng, cũng không cần thiết.

- Bước dạo của thời gian :

Khoa học kỹ thuật ngày nay của loài người đã phát triển đến mức độ rất cao, nhưng chỗ khó là đối với mức độ nhận thức về thời gian vẫn còn thấp kém, nên chỉ nghe đến lý luận "Thời gian có thể chuyển hóa thành không gian” của ông Einstein thì cảm thấy bất khả tư nghì, ấy là người địa cầu nơi không gian ba chiều chỉ cảm nhận mọi sự vật bằng ngũ giác quan, khó mà nhận biết của thời gian.

Sau đây là những danh từ mô tả về khái niệm thời gian : Thời gian, Vật chất hư thái, Ẩn nghi, Vật chất hổn độn, Vật chất ẩn tánh, Cơ nhân năng lượng, Hư tử, Làn sóng tin tức, Khí, Đạo, Vật chất dĩ thái.

Trong sự kiện đĩa bay “Andison” chấn động thế giới kia, sinh linh trí tuệ hành tinh nói với ông ấy rằng : “Khái niệm về thời gian của người địa cầu các ông khác hẳn với chúng tôi”. Theo người hành tinh kể thì thời gian có tính co giãn, có bề mặt bề trái, có xuôi có ngược. Lời này đối với chúng ta thật cảm thấy bất khả tư nghì biết bao!

Nhưng chiếu theo nguyên lý vô cực, chỉ cần chúng ta dùng siêu ngũ giác quan để tìm hiểu lý luận nội dung của thời gian thì có thể nhất trí với lời nói của người hành tinh.

- Khái niệm thời gian của người địa cầu ba chiều :

Ông Newton nói về thời gian dụ như nước suối chảy theo một chiều. Sự hiểu biết của ông ấy cũng là sự cảm nhận của ngũ giác quan chúng ta. Đó là sự cảm nhận hợp lý của khoa học địa cầu ba chiều này chẳng có gì đặc biệt.

Bởi vì vật chất hiển tánh thật hạt tử vận động nơi thế giới tốc độ thấp, cho thời gian là một con số chẳng thể biến đổi, chẳng có xuôi ngược, hôm nay qua rồi chẳng thể trở lại ngày hôm qua. Thời gian trôi qua một năm giữa người này và người khác đều giống nhau, nghĩa là sự vận động của vật chất hiển tánh chẳng có nhanh chậm biến đổi, cũng như người xưa chẳng có đồng hồ, cuộc sống trải qua yên ổn như thường.

Do đó, nếu xảy ra sự vật đối với thời gian có quan hệ trực tiếp đến biến đổi chuyển hóa thì thường bị coi là việc kỳ lạ và thần thoại. Như trong không gian ba chiều lại xuất hiện sự vật liên quan đến không gian bốn chiều thì sẽ xem là việc mê tín.

- Một vật huyền bí :

Chúng tôi đem thời gian xếp thành chiều không gian thứ tư, nghĩa là nơi không gian ba chiều : Dài, rộng, cao, thêm vào chiều thứ tư là chiều thời gian, có năng lượng chuyển biến mà chẳng thể thấy, chẳng thể mò, khác hẳn với không gian; ánh sáng chiếu trên thời gian chẳng thể chứng tỏ sự tồn tại của nó, vì ngũ giác quan chẳng thể phát hiện, thuộc về mọi vật huyền bí.

Nếu đưa ông vào một vệ tinh xoay vòng ngược hướng với quả địa cầu mà không cho ông xem đồng hồ, bất cứ lúc nào ông cũng nhìn thấy mặt trời ở trên đỉnh đầu; như vậy trải qua một khoảng thời gian thì khái niệm ngày tháng sẽ bị đánh mất, đối với thời gian chỉ có cảm giác mơ hồ. Khi ấy sẽ xảy ra hiện tượng : Trong núi chẳng có lịch, bốn mùa đều chẳng biết.

Nếu nói không gian là thế giới hiển tánh thì thời gian là thế giới ẩn tánh, từ đó sẽ xuất hiện một sự vật tương đối giữa thế giới ẩn và hiển, tương tựa đối lập, y dựa lẫn nhau, chuyển hóa mâu thuẫn, chu kỳ chơn thường, hợp thành một vũ trụ vô cực gồm hai tánh Ẩn và Hiển.

Những sự vật tồn tại khách quan kể trên chẳng thể dùng ngũ giác quan nghiệm chứng, chỉ có thể cảm nhận siêu ngũ giác quan, suy xét theo ẩn tánh tiến vào Linh-giới.

Đã xảy ra một việc cụ thể và trải qua điều tra như sau : Một em bé bị bệnh nặng, trong quá trình hôn mê nhưng chưa dứt hơi, người nhà đặt em bé trên mặt đất trải qua 60 ngày đã sống trở lại. Hỏi em những ngày vừa qua ở đâu ? Làm gì ? Thì em bé kể ra giống như thần thoại rằng : “Em nhìn thấy sự hoạt động của Thần Tiên, khi ấy lang thang chẳng mục đích và bước vào một thế giới vắng lặng, chẳng tìm được đường về nhà”.

Sau đó có một bà lão bảo em : “Em hãy về đi, đến đây sớm quá làm chi”, đồng thời chỉ có một cái cầu bảo em đi theo đó trở về. Quả nhiên được về đến nhà mà tỉnh lại.

Em bé dạo chơi nơi thế giới ẩn tánh 60 ngày mà thể xác vẫn chưa chết và hư thối; vụ việc rất hiếm có, nhưng ai có thể nghiên cứu được!

Nơi em bé đi vào thuộc giới hư thái của thời gian, theo sự hiểu biết của chúng tôi, thế giới không gian gọi là “Vũ”, thế giới thời gian gọi là “Trụ”, 2 chữ ‘Vũ Trụ’ tức là do không gian, thời gian và số lượng hợp thành, gọi là vũ trụ vô cực.

- Thời gian cũng là năng lượng :

Nếu nói thời gian là vật chất, là vật chất hư thái, là vật chất hổn độn chẳng chiếm không gian, là vật chất dạng làn sóng tin tức.

Mô tả như thế vẫn chưa đủ, dù nói “Vật chất” nhưng chỉ là năng lượng của thời gian, có thể gọi là tổ hợp nhân tử của năng lượng, tức là tin tức năng lượng trong biển cả năng lượng chẳng bờ bến.

Năng lượng này chẳng thể xem như năng lượng hiển tánh, giống như lời của Lão Tử nói : “Một vật thành sẵn trước trời đất”, một vật chất mơ hồ trước khi vũ trụ chưa hình thành, một vật chất thái hư bất sanh bất diệt. Vật chất này ở nơi không gian ba chiều, chỉ xuất hiện theo hình thức hư thái của thời gian, chẳng thể nhận thức bằng ngũ giác quan của con người, miễn cưỡng gắn tên gọi là “Đạo”.
 

Phần đầuphần hai, phần cuối, phụ lục 1, phụ lục 2

Tác giả bài viết: thichdaophat

Nguồn tin: Tông Phong Tàng Thư

Theo dòng sự kiện

Xem tiếp...

Những tin mới hơn