04:10 ICT Thứ hai, 02/12/2024

Giới Thiệu

Hoài niệm ân sư

I. THỜI THƠ ẤU :        Sư hiệu DUY LỰC, tự GIÁC KHAI, thế danh LA DŨ sanh ngày 05 tháng 05 năm 1923, tại làng Long Tuyền (Bình Thủy), Tỉnh Cần Thơ (VN). Cha tên La Xương và Mẹ tên là Lưu Thị làm nghề nông, nguyên là người làng Long Yên, huyện Phong Thuận phủ Triều Châu, tỉnh...

Danh mục chính

Liên Kết Trang

TS NGUYET KHE
HUE NANG
TS DUC SON

Trang nhất » Tông Phong Tàng Thư » Kinh » Kinh Lăng Nghiêm

Kinh Lăng Nghiêm - Quyển 8 (tt)

Chủ nhật - 07/04/2013 05:48 Xem: 1827
phần sau
62. Tam Giới

A-nan liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, chắp tay cung kính bạch Phật rằng :

- Thế Tôn có oai đức lớn, Từ-âm vô ngại, khéo khai phá những mê hoặc vi tế của chúng sanh khiến con hôm nay thân tâm an lạc, được lợi ích lớn.

- Thế Tôn ! Nếu Diệu-tâm sáng tỏ này vốn viên mãn cùng khắp, như thế cho đến đất đai, cỏ cây sâu bọ, hàm linh, bản tánh chơn như, tức là chơn thể thành Phật của Như-lai; vậy Phật thể chơn thật, tại sao lại có các đạo Địa-ngục, Ngạ-quỷ, Súc-sanh, Tu-la, loài Người và Trời ? Thế Tôn, lục Đạo này vốn tự có, hay là do tập khí hư vọng của chúng sanh mà sanh khởi ?

- Thế Tôn ! Như Tỳ-kheo-ni Bửu Liên Hương trì Giới Bồ-tát, lén hành dâm dục, vọng nói hành dâm, chẳng phải sát sanh và trộm cắp, chẳng có nghiệp báo. Nói xong, nơi nữ căn liền sanh ngọn lửa lớn, rồi từng đốt xương lại bị bừng cháy, đọa ngục A-tỳ.

- Như Vua Lưu-ly, và Tỳ-kheo Thiện-tinh : Lưu-ly thì giết hại hết dòng họ Cù-đàm; Thiện-tinh thì vọng nói tất cả pháp đều Không (đoạn diệt Không) đang sống bị đọa vào ngục A-tỳ.

- Các Địa-ngục ấy là có chỗ nhất định hay chẳng định ? Mỗi người gây nghiệp nhân, mỗi mỗi tự chịu nghiệp quả, hay là tất cả tự nhiên ?

- Xin Phật rủ lòng Đại Từ, khai phá ngu dại, khiến tất cả chúng sanh trì Giới, nghe nghĩa quyết định, hoan hỷ phụng hành, giữ gìn chẳng phạm.

Phật bảo A-nan :

- Lành thay câu hỏi này, khiến các chúng sanh chẳng mắc tà kiến, nay ngươi hãy lắng nghe, Ta sẽ vì ngươi mà nói.

- A-nan ! Bản-tánh của tất cả chúng sanh vốn chơn thật trong sạch, vì vọng kiến mà vọng sanh tập khí, do đó chia thành nội phần và ngoại phần.

- A-nan ! Nội phần tức là phần trong của chúng sanh. Do lòng ái nhiễm phát khởi vọng tình, vọng tình tích chứa không thôi, sanh ra ái thủy, nên chúng sanh hễ nghĩ đến thức ăn ngon thì chảy nước miếng; nhớ đến người xưa, hoặc thương hoặc giận, thì chảy nước mắt, tham cầu của báu, trong tâm ham muốn, cả mình đều thấm nhuần nước tham; tâm tham dâm dục thì hai căn nam nữ tự nhiên chảy dịch. A-nan, những ái dục ấy dù khác, nhưng sự chảy nước là đồng, tánh nước thấm ướt chẳng lên được, tự nhiên sa đọa, gọi là Nội Phần.

- A-nan ! Ngoại Phần tức là phần ngoài của chúng sanh. Do lòng khao khát phát ra vọng tưởng, vọng tưởng chứa mãi không thôi, sanh ra thắng khí. Nên chúng sanh hễ tâm giữ Giới-cấm thì cả thân nhẹ nhàng; tâm trì Chú-ấn thì cử chỉ hùng dũng, tâm muốn sanh cõi Trời thì chiêm bao thấy bay lên, tâm nhớ cõi Phật, thì thắng cảnh thầm hiện, phụng sự Thiện-tri-thức thì tự khinh thân mạng. A-nan, những vọng tưởng dù khác, nhưng sự nhẹ nhàng bay lên là động, bay động chẳng chìm, tự nhiên vượt lên gọi là Ngoại Phần.

- A-nan ! Tất cả sanh tử tương tục trên thế gian, sống thì tùy thuận theo tập khí, chết thì biến đổi theo dòng nghiệp, đến lúc lâm chung, còn chút hơi ấm, các việc thiện ác của một đời đồng thời hiện ra, sống thì thuận, chết thì nghịch, hai tập khí giao xen lẫn nhau, thuần tưởng thì bay lên, ắt sanh cõi Trời, nếu cái tâm bay ấy gồm cả phước đức, trí huệ và tịnh nguyện, thì tự nhiên tâm được mở mang, thấy tất cả Tịnh-độ với mười phương chư Phật, theo nguyện vãng sanh.

- Tình ít tưởng nhiều, nhẹ nhàng bay xa thì làm Phi-tiên, đại lực Quỷ-vương, phi hành Dạ-xoa, địa hành La-sát, dạo khắp cõi Trời, chẳng gì ngăn ngại. Trong đó nếu có thiện tâm thiện nguyện, hộ trì Phật-pháp, hoặc hộ trì Giới-cấm và người trì Giới; hoặc hộ trì Thần-chú và người trì Chú; hoặc hộ trì Thiền-định, thành tựu Pháp-nhẫn, thì những hạng ấy được ở cạnh Pháp-tọa của Như-lai.

- Tình và tưởng bằng nhau, chẳng bay chẳng chìm, sanh nơi cõi người; tưởng sáng suốt thì thông minh, tình ám muội thì ngu độn.

- Tình nhiều tưởng ít, đọa vào súc sinh, nghiệp nặng thì làm loài có lông, nghiệp nhẹ thì làm loài có cánh.

- Bảy phần tình, ba phần tưởng, thì chìm dưới thủy luân, sanh nơi hỏa luân, thân làm Ngạ-quỷ, thọ cái khổ của lửa hồng, thường bị đốt cháy, dầu được uống nước cũng hóa thành lửa, nên nói bị nước hại, trải qua trăm ngàn kiếp, chẳng thể ăn uống.

- Chín phần tình, một phần tưởng, thì đọa dưới hỏa luân, thân vào giữa phong luân và hỏa luân, nghiệp nhẹ thì vào ngục Hữu Gián, nghiệp nặng thì vào ngục Vô Gián.

- Thuần tình thì chìm sâu vào ngục A-tỳ, nếu tâm chìm sâu ấy, có phỉ báng Đại-thừa, phá Giới-cấm của Phật, cuồng vọng thuyết Pháp, hư tiêu tín thí, lạm nhận cung kính, hoặc phạm ngũ nghịch, thập trọng cấm, thì lại phải sanh khắp ngục A-tỳ mười phương.

- Chúng sanh cùng tạo ác nghiệp thì phải chịu quả báo đồng phận, nhưng trong cộng nghiệp mỗi người đều có biệt nghiệp của mình, tùy theo ác nghiệp sở tạo, mỗi mỗi tự chuốc lấy quả báo khác nhau.

- A-nan ! Những điều kể trên, đều do nghiệp của chúng sanh tự chiêu cảm, tạo Thập Tập Nhân, thọ Lục Giao Báo.

. Sao nói Thập Tập Nhân ?

- Một là Dâm Tập giao tiếp, phát nơi cọ xát lẫn nhau, cọ mãi không thôi, thế nên trong đó phát ra ngọn lửa hồng, như người dùng hai tay cọ xát, thì tướng Ấm hiện tiền. Hai tập khí đốt nhau mới sanh những việc giường sắt, trụ đồng. Mười phương Như-lai xem sự hành dâm đồng như dục hỏa, Bồ-tát xem dục như hầm lửa phải tránh.

- Hai là Tham Tập giao kế (so đo tham cầu) phát nơi thu hút lẫn nhau, hút mãi không thôi, thế nên chứa hơi lạnh bên trong thành băng giá, như người hít hơi gió vào miệng thì có cảm xúc lạnh. Hai tập khí lấn nhau, mới chịu những khổ của địa ngục hàn băng. Mười phương Như-lai xem việc tham cầu đồng như tham thủy, Bồ-tát xem tham như biển độc phải tránh.

- Ba là Mạn Tập giao lăng (lấn ép nhau), phát nơi ỷ thế, lấn áp không thôi; thế nên có sự cãi vã tranh chấp, quậy nước thành sóng, như người tự liếm miệng lưỡi, chảy ra nước miếng. Hai tập khí chọi nhau, mới sanh những việc sông huyết, sông tro, cát nóng, biển độc, bắt uống nước đồng chảy v.v... Mười phương Như-lai xem sự ngã mạn như uống nước si, Bồ-tát xem ngã mạn như sự chìm đắm phải tránh.

- Bốn là Sân Tập giao xung (xung đột nhau) phát nơi chống đối chống mãi không thôi, tâm nóng nảy phát lửa, đúc khí thành kim loại, thế nên có những việc đao sơn, kiếm thụ, rìu, búa, thương, cưa, như người bị hàm oan thì sát khí nổi lên. Hai tập khí đụng nhau, mới sanh những việc thiến, cắt, chém, chặt, dùi, đâm, đánh, đập, v.v... Mười phương Như-lai xem sự sân hận như dao gươm bén, Bồ-tát xem sân hận như chém giết phải tránh.

- Năm là Trá Tập giao dụ (dụ dỗ nhau), phát nơi quyến rũ, lôi kéo chẳng thôi, thế nên có những việc dây, cây, thòng lọng, căng nọc, như nước thấm ruộng thì cỏ cây sanh trưởng. Hai tập khí kéo nhau mới sanh những việc gông, cùm, xiềng, xích, roi, gậy, đòn v.v... Mười phương Như-lai xem sự dối trá đồng như gian tặc, Bồ-tát xem dối trá như beo sói phải sợ.

- Sáu là Cuồng Tập giao khí (lừa gạt), phát nơi phỉnh gạt, gạt mãi không thôi, buông tâm gian dối, thế nên có đất bùn, đại tiểu tiện, các thứ ô uế, như bụi theo gió, chẳng có chỗ thấy. Hai tập khí dìm nhau, mới sanh những việc chìm đắm, nhảy, ném, bay, rơi, trôi lăn v.v... Mười phương Như-lai xem sự lừa gạt đồng như cướp giết, Bồ-tát xem sự lừa gạt, như giẫm rắn độc.

- Bảy là Oán Tập giao hiềm (hiềm khích), phát nơi sân hận, thế nên có sự quăng đá, ném gạch, hộp nhốt, cũi nhốt, rọ nhốt, đãy bọc, như người hiểm độc ôm ấp điều dữ. Hai tập khí nuốt nhau, mới sanh những việc ném, quăng, nắm, bắt, đánh, bắn, tóm, siết v.v. Mười phương Như-lai xem sự thù oán, đồng như Quỷ Vi Hại, Bồ-tát xem thù oán như uống rượu độc.

- Tám là Kiến Tập giao minh (kẻ thông minh ham kiến chấp), như năm thứ ác kiến và các nghiệp tà ngộ, vì kiến giải khác nhau nên chống trái lẫn nhau, ví như người lạ đi đường qua lại gặp nhau, cãi cọ thưa kiện, nên có các cấp quan lại, nắm giữ hồ sơ văn bản đối chứng. Hai tập khí giao xen, thế nên mới có Thiện Ác Đồng-tử tay cầm hồ sơ văn bản, điều tra bằng chứng cụ thể, khám hỏi, tra khảo, thẩm vấn v.v... Mười phương Như-lai xem những ác kiến đồng như hầm độc, Bồ-tát xem những kiến chấp hư vọng như vào hố độc.

- Chín là Uổng Tập (vu vạ) giao xen, phát nơi vu khống phỉ báng; thế nên có hợp sơn, hợp thạch, cối nghiền, cối xay, như kẻ gièm pha vu oan người lương thiện. Hai tập khí bài xích lẫn nhau, mới sanh những việc áp giải, đè đập, ép huyết v.v. Mười phương Như-lai xem sự vu vạ đồng như cọp gièm pha, Bồ-tát xem sự vu vạ như bị sấm sét.

- Mười là Tụng Tập giao thuyên (thưa kiện cãi vã), phát nơi che giấu tội lỗi; thế nên có gương soi, đuốc chiếu, như đứng giữa mặt trời, chẳng thể giấu bóng. Hai tập khí phô bày lẫn nhau mới sanh ra những việc ác hữu, nghiệp kính, chiếu soi, hỏa châu, phơi bày nghiệp xưa, đối nghiệm v.v... Mười phương Như-lai xem sự che giấu đồng như hiểm tặc, Bồ-tát xem sự che giấu như đội núi cao đi trên biển cả.

. Sao nói Lục Giao Báo ?

- A-nan ! tất cả chúng sanh, lục Thức tạo nghiệp, chiêu cảm ác báo, đều từ lục Căn mà ra.

- Sao nói ác báo từ lục Căn mà ra ?

- Một là Kiến Báo chiêu cảm ác quả. Khi Kiến-nghiệp giao báo thì lúc lâm chung, trước hết thấy lửa hồng cháy khắp mười phương, Thần-thức người chết bay rơi theo khói, vào ngục A-Tỳ, phát minh hai tướng : Một là thấy sáng, khắp thấy mọi thứ hung dữ, sanh khiếp sợ vô cùng; hai là thấy tối, mịt mù chẳng thấy gì, sanh hoảng hốt vô cùng. Như vậy, thấy lửa đốt Thính-giác thì thành chảo dầu sôi, nước đồng chảy; đốt Khứu-giác thì thành khói đen, lửa đỏ; đốt Vị-giác thì thành viên sắt cháy; đốt Xúc-giác thì thành tro nóng, lò than; đốt Ý-thức thì thành hoa lửa rưới khắp, rung động cả hư không.

- Hai là Văn Báo chiêu cảm ác quả. Khi Văn-nghiệp giao báo thì lúc lâm chung trước hết thấy sóng cuộn chìm ngập trời đất, Thần-thức người chết theo dòng nước trôi vào ngục A-Tỳ, phát minh hai tướng : Một là nghe rõ các tiếng ồn ào, tinh thần rối loạn; hai là điếc hẳn, lặng lẽ chẳng nghe gì, thần thức chìm lịm. Như vậy, nghe sóng chảy vào Thính-giác, thì thành sự trách hỏi, chảy vào Thị-giác thì thành sấm sét và khí độc; chảy vào Khứu-giác thì thành mưa và sương mù, rưới sâu độc vào đầy khắp cơ thể; chảy vào Vị-giác thì thành mủ, huyết và các thứ nhơ nhớp; chảy vào Xúc-giác thì thành súc sinh, ma quỷ và đại tiểu tiện; chảy vào Ý-thức thì thành điện chớp, mưa đá, đập nát tâm phách.

- Ba là Khứu Báo chiêu cảm ác quả. Khi Khứu-nghiệp giao báo, thì lúc lâm chung, trước hết, thấy hơi độc đầy dẫy xa gần, Thần-thức người chết từ dưới đất trào lên, vào ngục A-Tỳ, phát minh hai tướng : Một là ngửi thông bị các hơi độc xông vào, nhiễu loạn tâm thần; hai là nghẹt thở, hơi thở chẳng thông, làm chết giấc dưới đất. Như vậy, ngửi khí xông vào Khứu-giác thì thành thông, nghẽn; xông vào Thị-giác thì thành lửa, đuốc; xông vào Thính-giác thì thành chìm đắm, nước sôi; xông vào Vị-giác thì thành mùi thiu, thúi; xông vào Xúc-giác thì thành nứt, nát, thành núi thịt lớn có trăm ngàn mắt, hút ăn không cùng; xông vào Ý-thức thì thành tro, chướng khí và cát đá bay, đập nát thân thể.

- Bốn là Vị Báo chiêu cảm ác quả. Khi Vị-nghiệp giao báo thì lúc lâm chung, trước hết thấy lưới sắt phát lửa bừng cháy, che khắp thế giới; Thần-thức người chết sa đọa mắc lưới, treo ngược đầu xuống, vào ngục A-tỳ, phát minh hai tướng : Một là hít hơi vào, kết thành băng giá, làm nứt nẻ thân thể, hai là thở hơi ra, bay thành lửa hồng đốt cháy xương tủy. Như vậy, nếm mùi qua Vị-giác thì thành nhận chịu; qua Thị-giác thì thành kim thạch nung đỏ; qua Thính-giác thì thành binh khí sắc bén; qua Khứu-giác thì thành lồng sắt lớn, che khắp Quốc-độ; qua Xúc-giác thì thành cung, tên, nỏ, súng; qua Ý-thức thì thành sắt nóng, bay từ trên không rưới xuống như mưa.

- Năm là Xúc Báo chiêu cảm ác quả. Khi Xúc-nghiệp giao báo thì lúc lâm chung, trước hết thấy núi lớn từ bốn phía hợp lại, chẳng còn đường ra; Thần-thức người chết thấy Thành Sắt lớn, rắn lửa, cọp, sói, sư tử, ngục tốt (người gác ngục) đầu trâu, La-sát đầu ngựa, tay cầm thương, xóc, lùa vào cửa Thành, hướng về ngục A-tỳ, phát minh hai tướng : Một là hợp xúc, núi hợp lại ép thân, xương thịt tuôn máu; hai là lìa xúc, dao gươm đâm chém, tim gan bị cắt xẻ. Như vậy, hợp xúc qua Xúc-giác thì thành con đường địa ngục, gặp Diêm-la-vương xử án; qua Thị-giác thì thành đốt cháy, nung đỏ; qua Thính-giác thì thành đánh, đập, đâm bắn; qua Khứu-giác thì thành tóm, đựng, khảo, trói; qua Vị-giác thì thành cày, kìm, chém, chặt; qua Ý-thức thì thành rơi, bay, nấu nướng.

- Sáu là Tưởng Báo chiêu cảm ác quả. Khi Tưởng-nghiệp giao báo thì lúc lâm chung, trước hết thấy gió bão thổi nát Quốc-độ; Thần-thức người chết bị thổi lên hư không, xoay rơi theo gió, đọa ngục A-Tỳ, phát minh hai tướng : Một là chẳng giác, mê muội vô cùng, bỏ chạy không thôi; hai là chẳng mê, hay biết các khổ, bị đốt cháy không cùng, đau đớn khổ sở. Như vậy, tà tưởng kết vào Ý-thức thì thành phương sở; kết vào Thị-giác thì thành gương soi, bằng chứng; kết vào Thính-giác thì thành đại hợp băng giá, sương mù, đất bùn; kết vào Khứu-giác thì thành xe lửa, thuyền lửa, củi lửa; kết vào Vị-giác thì thành tiếng la hét, than khóc; kết vào Xúc-giác thì thành lớn nhỏ, nghiêng ngửa, muôn lần sống đi chết lại trong một ngày.

- A-nan ! mười Tập-nhân và sáu Giao-báo của Địa-ngục kể trên đều do chúng sanh mê vọng tạo ra. Nếu chúng sanh lục Căn đồng tạo ác nghiệp thì vào ngục A-tỳ, trải qua vô số kiếp, chịu khổ vô cùng; nếu lục Căn mỗi mỗi tạo riêng, với nghiệp sở tạo, gồm cả Căn& trần thì người ấy vào khu 8 ngục A-Tỳ; nếu cả thân khẩu, ý, tạo nghiệp sát, đạo, dâmthì người ấy đọa vào khu 18 địa ngục; nếu không gồm cả ba nghiệp hoặc trong ấy chỉ tạo nghiệp sát hay nghiệp đạo thì người ấy vào khu 36 địangục; nếu chỉ có một Căn riêng tạo một nghiệp thì người ấy vào khu 108 địangục.

- Mỗi chúng sanh dù riêng tạo Biệt-nghiệp, nhưng cùng vào chỗ đồng phận trong thế giới, ấy đều do vọng tưởng sanh ra, chẳng phải vốn sẵn có.

. Mười Loại Quỷ

- Lại nữa A-nan ! Nếu các chúng sanh phá hủy Luật-nghi, phạm giới Bồ-tát, phỉ báng Niết-bàn và các nghiệp khác, thì trải qua nhiều kiếp bị đốt cháy, sau khi đền tội xong, thọ các hình Quỷ.

Nếu ở nơi bản nhân, do tham vật tạo tội, người ấy khi đền tội xong, gặp vật thành hình gọi là Quái Quỷ; do tham sắc tạo tội, khi đền tội xong, gặp gió thành hình gọi là Bạt Quỷ; do tham dối trá tạo tội, khi đền tội xong, gặp súc vật thành hình gọi là Mỵ Quỷ; do tham sân hận tạo tội, khi đền tội xong, gặp sâu bọ thành hình gọi là Cổ Độc Quỷ; do tham ghi khắc thù oán tạo tội, khi đền tội xong, gặp kẻ thù vận suy thành hình gọi là Lệ Quỷ; do tham ngạo mạn tạo tội, khi đền tội xong, gặp khí thành hình gọi là Ngạ Quỷ; do tham lừa gạt tạo tội, khi đền tội xong, gặp u ẩn thành hình gọi là Yểm Quỷ; do tham minh ngộ tạo tội, khi đền tội xong, gặp tinh linh thành hình gọi là Võng Lượng Quỷ; do tham vu vạ tạo tội, khi đền tội xong, gặp linh hiển thành hình gọi là Dịch Sử Quỷ; do tham kết bè phái tạo tội khi đền tội xong, gặp con người thành hình gọi là Truyền Tống Quỷ.

- A-nan ! Loại này đều vì thuần tình mà sa đọa, khi nghiệp lửa đốt cạn thì lên làm Quỷ, ấy đều do vọng tưởng của tự mình chiêu cảm nghiệp quả, nếu ngộ tánh Bồ-đề, thì nơi Diệu-tâm sáng tỏ vốn chẳng có gì cả.

- Lại nữa A-nan ! Khi hết Nghiệp-quỷ, tình và tưởng cả hai đều không, mới ở nơi thế gian, với người mắc nợ cũ oán đối gặp nhau, thân làm súc sinh để trả nợ xưa.

- Loài Quái-quỷ theo vật, khi vật tiêu báo hết, sanh nơi thế gian, phần nhiều làm loài chim kêu.

- Bạt-quỷ theo gió, khi gió tiêu báo hết, sanh nơi thế gian, phần nhiều làm loài cửu trưng (loài dự báo điềm xấu như chim cú, quạ...)

- Mỵ-quỷ theo súc, khi súc chết báo hết, sanh nơi thế gian, phần nhiều làm loài chồn.

- Cổ-quỷ theo sâu, khi suy sâu diệt hết, sanh nơi thế gian, phần nhiều làm loài độc hại.

- Lệ-quỷ theo vận suy, khi suy tiêu báo hết, sanh nơi thế gian, phần nhiều làm loài giun sán.

- Ngạ-quỷ theo khí, khi khí tiêu báo hết, sanh nơi thế gian, phần nhiều làm loài gia súc.

- Yểm-quỷ theo u-ẩn, khi u-ẩn tiêu báo hết, sanh nơi thế gian, phần nhiều làm loài tằm, cừu, cung cấp đồ mặc.

- Võng-lượng-quỷ theo tinh linh, khi tinh tiêu báo hết, sanh nơi thế gian, phần nhiều làm loài chim mùa.

- Dịch-sử-quỷ theo linh hiển, khi linh diệt báo hết, sanh nơi thế gian, phần nhiều làm loài hưu trưng (loài dự báo điềm tốt như phụng, lân).

- Truyền-tống-quỷ theo người, khi người chết báo hết, sanh nơi thế gian, phần nhiều làm loài tùng phục bên người như chó, mèo.

- A-nan ! Loại này đều vì Nghiệp-lửa đốt cạn, sanh vào loài súc, đền trả nợ xưa, ấy cũng là do Vọng-nghiệp chiêu cảm; nếu ngộ tánh Bồ-đề thì các vọng duyên này vốn chẳng có gì cả.

. Mười Loài Súc Sanh

Như ngươi hỏi về những quả báo ác nghiệp của Bửu Liên Hương, Lưu Ly Vương và Tỳ-kheo Thiện Tinh từ đâu ra ? Phải biết mỗi mỗi đều tự tạo, chẳng phải từ trên Trời xuống, từ dưới đất ra, hay người khác đưa đến. Tự tạo Vọng-nghiệp, tự chiêu ác quả, mà chẳng biết nơi tâm Bồ-đề, ấy đều do vọng tưởng giả dối kết tụ.

- Lại nữa A-nan ! Những súc sinh ấy, đền trả nợ cũ, nếu trả quá nợ cũ, thì trở lại làm người, đòi lại phần thừa. Nếu người kia có sức mạnh, lại có phước đức thì khỏi bỏ thân người mà vẫn hoàn lại phần thừa ấy được, còn nếu chẳng phước đức thì phải làm súc sinh để trả lại cái thiếu.

- A-nan nên biết ! Nếu mắc nợ tiền tài hoặc sức lực của loài vật, khi đền đủ thì tự ngưng... Nếu ở trong đó có giết hại sinh mạng hoặc ăn thịt họ, như thế cho đến ăn nhau, giết nhau, trải qua vô số kiếp, như chuyển bánh xe, lúc cao lúc thấp, thay phiên nhau chẳng ngừng. Trừ khi gặp Phật ra đời, ngộ pháp Xa-ma-tha, nếu không thì nghiệp chẳng thể ngưng.

- Nay ngươi nên biết, loài chim kêu kia, trả hết nợ cũ, trở lại làm người, sanh vào hạng ngoan cố.

- Loài cữu trưng kia, trả hết nợ cũ, trở lại làm người, sanh vào hạng quái dị.

- Loài chồn kia, trả hết nợ cũ, trở lại làm người, sanh vào hạng ngu dại.

- Loài độc hại kia, trả hết nợ cũ, trở lại làm người, sanh vào hạng nham hiểm.

- Loài giun sán kia, trả hết nợ cũ, trở lại làm người, sanh vào hạng hèn hạ.

- Loài gia súc kia, trả hết nợ cũ, trở lại làm người, sanh vào hạng nhu nhược.

- Loài tằm, cừu kia, trả hết nợ cũ, trở lại làm người, sanh vào hạng nghèo khổ.

- Loài chim mùa trưng kia, trả hết nợ cũ, trở lại làm người, sanh vào hạng văn hoa.

- Loài hưu trưng kia, trả hết nợ cũ, trở lại làm người, sanh vào hạng thông minh.

- Loài tùng phục bên người kia, trả hết nợ cũ, trở lại làm người, sanh vào hạng thông thạo.

- A-nan ! Loại này dù trả hết nợ cũ, trở lại làm người, đều do điên đảo tạo nghiệp, sanh nhau giết nhau từ vô thỉ, chẳng gặp Như-lai, chẳng nghe Chánh-pháp, ở trong trần lao xoay vần mãi, bọn này gọi là thật đáng thương xót.

. Mười Loại Tiên

- A-nan ! Lại có chúng sanh, trong cõi người chẳng theo Chánh-giác tu Tam-ma-địa mà tu theo vọng niệm, giữ tâm củng cố hình hài, ẩn trong rừng núi, những chỗ vắng người, thành mười loại tiên.

l. A-nan ! Những chúng sanh ấy, kiên cố dùng đồ bổ chẳng ngừng nghỉ, thành tựu đạo thực, gọi là Địa Hành Tiên.

2. Kiên cố dùng cỏ cây chẳng ngừng nghỉ, thành tựu đạo thuốc, gọi là Phi Hành Tiên.

3. Kiên cố luyện đơn chẳng ngừng nghỉ, thành tựu đạo hóa chất, gọi là Du Hành Tiên.

4. Kiên cố luyện khí chẳng ngừng nghỉ, thành tựu tinh khí, gọi là Không Hành Tiên.

5. Kiên cố luyện tâm dịch chẳng ngừng nghỉ, thành tựu nhuận đức, gọi là Thiên Hành Tiên.

6. Kiên cố hấp thụ tinh hoa chẳng ngừng nghỉ, thành tựu sự hấp thụ, gọi là Thông Hành Tiên.

7. Kiên cố luyện theo bùa chú chẳng ngừng nghỉ, thành tựu bùa phép, gọi là Đạo Hành Tiên.

8. Kiên cố chuyên chú tâm niệm chẳng ngừng nghỉ, thành tựu niệm tưởng, gọi là Chiếu Hành Tiên.

9. Kiên cố về thủy hỏa giao cấu chẳng ngừng nghỉ, thành tựu sự cảm ứng, gọi là Tinh Hành Tiên.

l0. Kiên cố biến hóa chẳng ngừng nghỉ, thành tựu tà ngộ, gọi là Tuyệt Hành Tiên.

- A-nan ! Loại này đều ở trong cõi người mà luyện tâm, chẳng tu Chánh-giác, xa cách người đời, thọ muôn ngàn tuổi, ẩn núp nơi núi sâu, hòn đảo, những chỗ vắng người; ấy cũng là theo vọng tưởng mà luân hồi. Nếu chẳng tu tam-muội, khi phước báo hết, phải trở lại trong lục đạo.

. Dục Giới

l. A-nan ! Những người thế gian, chẳng cầu đạo thường trụ, chưa thể rời bỏ sự ân ái vợ chồng, nhưng tâm chẳng buông lung nơi tà dâm, do tâm đứng lặng phát ra sáng suốt. Sau khi chết, ở gần với nhật nguyệt, loại này gọi là Tứ Thiên Vương Thiên.

2. Đối với vợ mình dâm ái ít ỏi, trong lúc tịnh cư chưa hoàn toàn trong sạch. Sau khi chết, vượt ánh sáng nhựt nguyệt, ở trên đảnh cõi người, loại này gọi là Đao Lợi Thiên.

3. Gặp dục tạm giao, qua rồi thì chẳng nhớ; nơi cõi người động ít tịnh nhiều. Sau khi chết, an trụ nơi hư không, ánh sáng nhựt nguyệt chẳng thể soi đến, hạng người ấy tự có ánh sáng, loại này gọi là Tu Diệm Ma Thiên.

4. Lúc nào cũng tịnh, nhưng khi tiếp xúc bỗng đến, chưa thể lìa bỏ. Sau khi chết, sanh lên cõi tinh vi, chẳng nối liền với những cõi trời, người ở dưới; khi kiếp hoại tam tai cũng chẳng thể đến, loại này gọi là Đâu Suất Đà Thiên.

5. Ta chẳng tâm dâm dục, chỉ đáp ứng với nhu cầu của người, xem sự dâm dục vô vị như ăn sáp. Sau khi chết, sanh lên cõi biến hóa, loại này gọi là Lạc Biến Hóa Thiên.

6. Tâm chẳng trụ thế gian mà thọ dụng cảnh dục đồng như thế gian; đang lúc thọ dụng, rõ ràng siêu thoát. Sau khi chết, vượt lên tất cả cảnh biến hoá và chẳng biến hóa, loại này gọi là Tha Hóa Tự Tại Thiên.

- A-nan ! Sáu cõi trời kể trên, hình dù khỏi động mà tâm còn dính mắc, từ đây trở xuống, gọi là Dục Giới.

Tác giả bài viết: thichdaophat

Nguồn tin: Tông Phong Tàng Thư

Theo dòng sự kiện

Xem tiếp...

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn