4. Khai Thị Thân Tâm
Lúc bấy giờ, A-nan và Đại Chúng nghe lời Phật dạy, thân tâm thư thái, nghĩ mình từ vô thỉ đến nay lạc mất bản tâm, lầm nhận bóng phân biệt của nhân duyên căn trần, hôm nay khai ngộ, như đứa bé khát sữa bỗng được gặp mẹ, chắp tay lễ Phật, mong được nghe Như-lai hiển bày chỗ chơn vọng hư thật của thân tâm, phát minh hai tánh sanh diệt và chẳng sanh diệt ngay trước mắt.
Khi ấy, Vua Ba-tư-nặc đứng dậy bạch Phật :
- Xưa kia con chưa được nghe lời dạy của Phật, thấy bọn Ngoại-đạo Ca-chiên-diên (chấp các pháp cũng có cũng không) và Tỳ-la-chi-tử (chấp mãn kiếp tự nhiên đắc đạo), đều nói thân này sau khi chết đoạn diệt gọi là Niết-bàn. Nay dù gặp Phật nhưng vẫn còn hồ nghi, chẳng biết làm thế nào mới được chứng tỏ chỗ chẳng sanh diệt của tâm này, hiện nay hàng hữu lậu trong Chúng đều mong cùng nghe.
Phật nói với Vua :
- Thân ông ở đây, nay ta hỏi ông, cái nhục thân này là đồng như kim cang, thường trụ chẳng hoại hay có biến diệt ?
- Bạch Thế Tôn ! Cái thân vô thường biến hoại của con dù chưa từng diệt, nhưng con xét thấy trước mắt niệm niệm dời đổi, mãi mãi không thôi, dần dần tiêu mòn, như lửa thành tro, sự tiêu mòn chẳng ngừng, nên biết chắc chắn thân này rồi sẽ diệt mất.
Phật nói :
- Đúng thế, đại vương ! Tuổi tác của ông nay đã già yếu, vậy mặt mày so với thuở nhỏ như thế nào ?
- Bạch Thế Tôn ! Xưa con còn nhỏ, da thịt mơn mởn, đến khi trưởng thành, khí huyết sung túc, nay thì tuổi già, ngày thêm suy yếu, hình sắc khô gầy, tinh thần mệt mỏi, tóc bạc mặt nhăn, sự sống chẳng còn bao lâu nữa, làm sao so bằng lúc trẻ mạnh !
Phật nói :
- Hình thể của ông đâu phải bỗng nhiên biến hoại !
- Bạch Thế Tôn ! Sự biến hóa âm thầm dời đổi, con thật chẳng hay, mùa đông mùa hạ thấm thoát trôi qua, dần dần đến thế này. Tại sao ? Khi hai mươi tuổi, dù gọi là trẻ, nhưng mặt mày đã già hơn lúc lên mười, khi ba mươi tuổi lại sút hơn lúc hai mươi, đến nay đã sáu mươi hai, so với lúc năm mươi thì suy yếu hơn nhiều. Thế Tôn, con cảm thấy sự dời đổi âm thầm trôi chảy theo kỳ hạn mười năm, nhưng nếu suy xét tỉ mỉ thì cái biến đổi ấy đâu phải từng 10 năm ! Thật ra thì mỗi năm mỗi đổi, cho đến mỗi tháng, mỗi ngày, mỗi giờ, trong mỗi sát-na niệm niệm biến đổi chẳng ngừng, nên biết thân này chung quy biến diệt vậy.
Phật nói :
- Ông thấy biến hóa dời đổi chẳng ngừng, ngộ biết phải diệt. Vậy trong lúc diệt, ông còn biết trong thân có cái gì chẳng diệt chăng ?
Vua Ba-tư-nặc chắp tay bạch Phật :
- Con thật chẳng biết !
Phật nói :
- Nay Ta chỉ cho ông cái tánh chẳng sanh diệt. Đại Vương, ông thấy nước sông Hằng hồi mấy tuổi ?
Vua đáp :
- Lúc lên ba, mẹ con dắt đi yết lễ thần Tỳ-bà-thiên, đi qua sông này, khi ấy đã biết sông Hằng.
Phật nói :
- Như lời ông nói, lúc hai mươi tuổi thì sút hơn lúc lên mười, cho đến sáu mươi niệm niệm dời đổi theo từng ngày giờ. Vậy khi ông ba tuổi thấy nước sông, rồi đến năm mười ba, thấy nước sông, tánh thấy như thế nào ?
Vua đáp :
- Tánh thấy cũng giống như khi ba tuổi, cho đến năm nay đã sáu mươi hai cũng chẳng có khác. (Bản kiến vốn chẳng sanh diệt biến đổi).
Phật nói :
- Nay ông tự than đã già, mặt ông chắc phải nhăn hơn lúc trẻ, vậy hiện nay thấy sông Hằng với lúc nhỏ thấy sông Hằng, cái tánh thấy có già trẻ gì chăng ?
- Bạch Thế Tôn ! Không ạ !
Phật nói :
- Mặt ông dù nhăn mà cái tánh của Kiến-tinh (năng thấy) chưa từng nhăn, có nhăn là biến, chẳng nhăn thì bất biến; biến ắt phải diệt, bất biến vốn chẳng sanh diệt. Vậy lấy gì để thọ nhận sanh tử cho ông ? Mà còn đem tà thuyết của bọn Mạt-già-lê kia, cho là thân này sau khi chết đoạn diệt !
Vua nghe Phật dạy, tin biết Bổn-kiến thật chẳng đoạn diệt, bỏ thân này sẽ được thân khác, nên cùng Đại Chúng vui mừng được pháp chưa từng có. Ngay đó, A-nan liền từ chỗ ngồi đứng dậy chắp tay đảnh lễ, quỳ gối bạch Phật :
- Bạch Thế Tôn ! Nếu cái tánh thấy nghe này thật chẳng sanh diệt, sao Thế Tôn lại nói chúng con lạc mất chơn tánh, hành theo điên đảo ? Xin Phật từ bi, rửa sạch trần cấu cho chúng con.
Tức thời, Như-lai duỗi cánh tay sắc vàng, ngón tay chỉ xuống, bảo với A-nan :
- Nay ngươi thấy tay Ta là chánh hay đảo ?
A-nan đáp :
- Chúng sanh thế gian cho đây là đảo, mà con thì chẳng biết thế nào chánh, thế nào đảo.
Phật bảo A-nan :
- Nếu người thế gian cho đây là đảo thì lấy gì làm chánh ?
A-nan đáp :
- Như-lai đưa cánh tay chỉ lên trời gọi là chánh.
Phật liền giơ cánh tay lên, bảo rằng :
- Theo tánh thấy là chánh, theo cảnh trần là đảo; tánh thấy chẳng có chánh, đảo, cảnh trần mới có chánh, đảo, nay chẳng theo tánh thấy mà duyên theo cảnh trần, đã là một lớp điên đảo. Lại, theo lý lẽ thường, cánh tay chỉ xuống thuận theo thân là chánh, cánh tay chỉ lên nghịch với thân là đảo; nay người thế gian đầu đuôi đổi nhau, cho thuận là đảo, cho nghịch là chánh, thành điên đảo bội phần. Vậy đem thân ngươi so với Pháp-thân thanh tịnh của Như-lai thì được biết rõ, thân Như-lai gọi là Chánh-biến-tri, thân các ngươi gọi là tánh điên đảo. Ngươi hãy quán xét kỹ giữa thân ngươi và thân Phật, cái cho là điên đảo ấy, ở chỗ nào gọi là điên đảo ?
LƯỢC GIẢI
Thanh tịnh Pháp-thân tức Diệu-tâm sáng tỏ chơn thật (gốc), kiến văn giác tri tức là vật do Diệu-tâm hiện ra (ngọn); về gốc là chánh, theo ngọn là đảo, ví như bọt nổi nơi biển, nhận biển là chánh, nhận bọt là đảo. Phật hỏi A-nan : Ngươi thấy tay ta là chánh hay đảo ? Khi đó A-nan nên ở nơi tánh thấy của mình trực ngộ thế nào chánh, thế nào đảo, chẳng nên nơi tay Như-lai cho là chánh, là đảo. Cũng như Tu-bồ-đề tĩnh tọa trong hang, chẳng nhờ căn thức được thấy Pháp-thân Như-lai, gọi là Chánh-biến-tri. Dùng mắt A-nan để thấy tay Như-lai, lại ở nơi tay phân biệt chánh hay đảo, ấy là duyên theo lục Thức, bỏ gốc theo ngọn, đã lìa ngôi Chánh nên gọi là tánh điên đảo.
*****
5. Khai Thị Bổn Kiến
Khi ấy A-nan và Đại Chúng ngẩn ngơ nhìn Phật không nháy mắt, chẳng biết chỗ thân tâm điên đảo, Phật mở lòng từ bi thương xót A-nan và Đại Chúng, phát Hải triều âm bảo khắp trong Hội rằng :
- Các Thiện-nam-tử ! Ta thường nói : các duyên tâm và sắc với các tâm sở (buồn, vui, yêu, ghét v.v...) các pháp sở duyên (cảnh trần) đều do tâm biến hiện, thân tâm của ngươi cũng là vật do Diệu-tâm hiện ra, vậy sao các ngươi lại lạc mất cái bản tánh vốn tròn đầy sáng tỏ của Diệu-tâm, nhận lầm cái mê (vọng tâm) nơi ngộ (diệu tâm) cho là tâm tánh, bèn mê diệu minh (diệu tâm sáng tỏ) trở thành vô minh, từ vô minh biến thành ngoan không, vô minh là năng biến, ngoan không là sở biến, năng sở hòa hợp biến ra tứ Đại là ngoại sắc của y báo, sắc lẫn lộn với tâm vọng tưởng thành có chúng sanh là nội sắc của chánh báo, tưởng (vọng tưởng), tướng (vọng sắc) làm thân, nhiếp trì thân tâm là thức thứ tám, tụ duyên lay động bên trong là thức thứ bảy, dong ruổi theo cảnh bên ngoài là thức thứ sáu, từ vô minh biến khởi vọng duyên vọng trần, mà nhận tướng nhiễu loạn lăng xăng này, mê muội cho là tự tâm ở trong sắc thân, chẳng biết sắc thân, núi sông, đất đai cho đến hư không đều là vật do Diệu-tâm biến hiện, ví như bỏ cả trăm ngàn biển lớn, chỉ nhận một bọt nước cho đó là bao gồm tất cả nước biển, cũng như các ngươi, tự bỏ Bản-kiến, lại ở nơi tay ta phân biệt chánh, đảo, thật là mê lại thêm mê. Như-lai nói là kẻ đáng thương xót vậy.
A-nan thọ nhận lòng từ bi dạy bảo thâm sâu của Phật, rơi lệ chắp tay bạch Phật rằng :
- Con dù được nghe Diệu-âm, ngộ biết chỗ bản lai thường trụ viên mãn của Diệu-tâm mà con hiện nay dùng tâm phan duyên nghe tiếng thuyết Pháp của Phật, dẫu ngộ được tâm này, nhưng chưa dám cho là Bản-tâm, mong Phật thương xót khai-thị Diệu-pháp, nhổ trừ gốc nghi ngờ của con, để được đến đạo vô thượng.
Phật bảo A-nan :
- Các ngươi nay còn dùng tâm phan duyên để nghe Pháp, vậy pháp này cũng là duyên, chẳng hợp pháp tánh. Cũng như có người dùng tay chỉ mặt trăng cho người khác xem, người ấy nên nhờ ngón tay để thấy mặt trăng; nếu nhìn ngón tay cho là mặt trăng thì chẳng những bỏ mất mặt trăng, cũng chẳng biết ngón tay. Tại sao ? Vì cho ngón tay là mặt trăng, chẳng những không biết ngón tay, lại cũng chẳng phân biệt được sáng tối. Tại sao ? Vì cho cái bản thể của ngón tay là tánh sáng của mặt trăng, chẳng rõ được hai tướng sáng tối vậy. Các ngươi cũng thế, nếu dùng ý thức phân biệt tiếng thuyết pháp của ta, cho là tâm của các ngươi, thì tâm này phải lìa sự phân biệt âm thanh, riêng có tánh phân biệt. Ví như người đi đường ở lại khách sạn, nghỉ tạm rồi đi, chẳng được thường trú, còn người giám đốc khách sạn thì khỏi đi đâu cả, nên gọi là chủ. Nay cũng như thế, nếu là Chơn-tâm (chủ) của ngươi thì khỏi cần đi đâu, sao lại lìa âm thanh chẳng có tự thể của tánh phân biệt ? Thế thì, cái tâm phân biệt âm thanh dung mạo này, lìa các sắc tướng chẳng có tự thể của tánh phân biệt cho đến sự phân biệt cũng chẳng có, phi sắc phi không, mà bọn Ngoại-đạo Câu-xá-ly mê muội cho là Minh-đế (Thần-ngã). Nếu lìa các pháp nhân duyên chẳng có tự thể của tánh phân biệt thì tâm tánh các ngươi đều có chỗ trả về, lấy gì làm Chủ ?
A-nan nói :
- Nếu tâm tánh của con đều có chỗ trả về, thì cái Diệu-tâm sáng tỏ của Như-lai nói, sao chẳng có chỗ trả về ? Xin Phật thương xót, khai-thị cho con.
Phật bảo A-nan :
- Nay ngươi thấy được ta là do cái Kiến-tinh sáng tỏ (đệ nhị nguyệt), Kiến-tinh này chẳng phải là Diệu-tâm sáng tỏ (đệ nhất nguyệt), gượng nói như mặt trăng thứ hai, cũng chẳng phải bóng của mặt trăng thứ nhất vậy. Ngươi hãy chú ý nghe, bây giờ ta sẽ chỉ rõ chỗ chẳng thể trả về. A-nan, như đây, giảng đường mở cửa bên đông, mặt trời mọc lên thì sáng, nửa đêm không trăng thì tối; chỗ có cửa nẻo thì thông, chỗ có vách tường thì nghẽn, chỗ phân biệt là duyên, nơi hư không là trống rỗng, bụi trần nổi lên thì thấy mịt mù, mưa tạnh trời thanh thì thấy sáng sủa, A-nan, ngươi xem các tướng biến hóa này, nay ta trả về chỗ bản nhân của nó ! Sao gọi là bản nhân ? Các tướng biến hóa này, sáng trả về mặt trời, tại sao ? Vì không mặt trời thì chẳng sáng, sáng thuộc mặt trời, nên trả về mặt trời, tối trả về đêm không trăng, thông trả về cửa nẻo, nghẽn trả về vách tường, duyên trả về phân biệt, trống rỗng trả về hư không, mịt mù trả về bụi trần, sáng sủa trả về mưa tạnh, tất cả việc thế gian không ngoài những loại này, vậy còn Kiến-tinh thấy được tám thứ kể trên đó, ngươi định trả về đâu ? Nếu trả cho sáng thì lúc không sáng chẳng thể thấy tối, thế thì sáng tối chẳng thể phân biệt, còn bảy thứ kia cũng giống như vậy. Những cái trả về được tất nhiên chẳng phải ngươi, cái không thể trả về chẳng phải ngươi thì là ai ? Vậy biết Tâm ngươi vốn diệu minh trong sạch, ngươi tự mê muội lạc mất Bản-tâm, cam chịu luân hồi, thường bị trôi lăn trong vòng sanh tử, nên Như-lai nói là đáng thương xót !
A-nan nói :
- Con dù biết tánh kiến này chẳng thể trả về, nhưng làm sao biết là Chân-tánh của con ?
Phật bảo A-nan :
- Ta hỏi ngươi, nay ngươi chưa đắc quả vô lậu, nhờ thần lực của Phật, được thấy cõi sơ thiền chẳng có ngăn ngại, mà A-na-luật thấy cõi Ta-bà như xem trái Yêm-ma-la trong bàn tay, các Bồ-tát thấy trăm ngàn cõi, mười phương Như-lai cùng tột vô số quốc độ Phật, chẳng chỗ nào không thấy khắp, mà sức thấy của chúng sanh thì chẳng quá vài dặm. A-nan, nay Ta cùng ngươi xem cung điện của Tứ Thiên Vương, từ đó trở xuống, xem tất cả hình tượng sáng tối khắp hư không, dưới nước và trên bờ, đều bị chướng ngại nơi tiền trần phân biệt, nay ta cho ngươi phân biệt trong sự thấy, xét xem cái nào là tự thể của tánh thấy, cái nào là vật tượng ? A-nan, cùng tột sức thấy của ngươi, từ cung Trăng cho đến Thất Kim Sơn, quán xét cùng khắp, dù có đủ thứ ánh sáng cũng đều là vật chứ chẳng phải ngươi, dần dần xem đến mây bay, chim hót, gió động, bụi nổi, cho đến núi sông, đất đai, người thú, cỏ lá... đều là vật chứ chẳng phải ngươi. A-nan, các tánh vật xa gần dù có khác biệt, nhưng đều do Kiến-tinh trong sạch của ngươi mà nhìn thấy. Vậy thì các loài vật tự có sai biệt mà tánh Kiến chẳng khác, cái Kiến-tinh diệu minh này chính là Tánh-thấy của ngươi.
- Nếu Kiến-tinh là vật thì ngươi cũng có thể thấy Kiến-tinh của Ta, nếu cùng thấy gọi là thấy Kiến-tinh Ta, thì lúc Ta chẳng thấy sao ngươi không thấy chỗ chẳng thấy của Ta ? Nếu thấy được chỗ chẳng thấy của Ta thì chẳng phải cái tướng chẳng thấy; nếu không thấy chỗ chẳng thấy của Ta, thì Kiến-tinh tất nhiên phi vật, sao lại chẳng phải ngươi ?
- Nếu Kiến-tinh là vật thì vật cũng có tánh thấy, lúc ngươi thấy vật, vật cũng thấy ngươi, thể tánh lẫn lộn thì ngươi và Ta với tất cả thế gian chẳng thể an lập. A-nan, nếu lúc ngươi thấy là ngươi chẳng phải Ta thấy, thì cái tánh thấy cùng khắp đó không phải ngươi là ai ? Sao lại tự nghi chơn tánh của ngươi cho là chẳng chơn, mà cầu sự thật nơi ta ?
LƯỢC GIẢI
"Tại sao nói Kiến-tinh này là ngươi chẳng phải vật ? Nếu Kiến-tinh là vật thì Kiến-tinh của Ta ngươi cũng thấy được, nhưng sự thật thì Kiến-tinh của Ta ngươi chẳng thể thấy.
Nếu nói Ta thấy ngươi thấy, lúc cùng thấy tức là thấy Kiến-tinh của Ta, vậy thì lúc Ta thấy, ngươi đã thấy được rồi, lúc Ta chẳng thấy, ngươi cũng phải thấy được chứ, mà sự thật lại chẳng như thế.
Nếu nói lúc thấy là dùng cái thấy để thấy, lúc chẳng thấy là dùng cái chẳng thấy để thấy, gọi là thấy chỗ chẳng thấy của Ta, vậy đã chẳng tự thấy, lấy gì để thấy cái tướng chẳng thấy kia ? Nếu cái tướng chẳng thấy kia cho ngươi thấy được, tức là tướng thấy, lại chẳng phải tướng chẳng thấy.
Vậy biết : Chỗ chẳng thấy của Ta, ngươi nhất định chẳng thể thấy được; lúc Ta chẳng thấy, ngươi đã chẳng thể thấy được thì lúc cùng thấy cũng chẳng thể thấy, thấy và chẳng thấy đều chẳng thể chỉ ra Kiến-tinh, vậy Kiến-tinh của Ta rõ ràng phi vật. Kiến-tinh của Ta phi vật thì Kiến-tinh của ngươi cũng là phi vật vậy. Kiến-tinh của ngươi đã phi vật thì chẳng thuộc nơi vật, làm sao chẳng phải ngươi ?" Đây là dùng cái nghĩa 'chẳng thể thấy' để sáng tỏ Kiến-tinh phi vật. Nếu Kiến-tinh có thể thấy được thì Kiến-tinh cũng là vật vậy, làm sao được làm chủ vạn tượng mà an lập cõi thế gian.
*****
6. Thể Dụng Của Kiến Tinh
- Bạch Thế Tôn ! Nếu Tánh-thấy này chắc là con chứ chẳng phải ai khác, thì khi con và Như-lai xem cung điện của Tứ Thiên vương và cung Trăng, Tánh-thấy này cùng khắp cõi Ta-bà, khi lui về Tịnh-xá, chỉ thấy vườn chùa, trước cửa giảng đường chỉ thấy hành lang. Thế Tôn, Tánh-thấy như vậy, bản thể vốn cùng khắp một cõi, nay ở trong phòng thì chỉ một phòng, vậy là do Tánh-thấy rút lớn thành nhỏ, hay do vách tường làm cho ngăn cách ? Nay con chẳng biết nghĩa này thế nào, mong Phật từ bi giảng rõ.
Phật bảo A-nan :
- Tất cả sự vật lớn, nhỏ trong, ngoài trên thế gian đều thuộc về tiền Trần, chẳng nên nói rằng cái thấy có co giãn, ví như trong khuôn vuông thấy có hư không vuông, ta lại hỏi ngươi : Hư không vuông ở trong khuôn vuông này là vuông nhất định hay chẳng nhất định ? Nếu vuông nhất định, đặt lại khuôn tròn thì hư không ấy chẳng thể tròn; nếu chẳng nhất định thì trong khuôn vuông chẳng có hư không vuông. Ngươi nói chẳng biết nghĩa này thế nào, nghĩa tánh như thế đâu còn thế nào nữa ?! A-nan, nếu muốn hiển bày chẳng có vuông tròn, chỉ cần trừ bỏ khuôn vuông, hư không vốn chẳng có hình thể vuông tròn, chớ nên nói "Trừ bỏ tướng vuông của hư không" (khuôn dụ cho vọng thức phân biệt, hư không dụ cho Bản-tâm).
- Cũng như ngươi hỏi : Khi vào phòng rút cái thấy cho nhỏ lại, vậy khi nhìn mặt trời thì phải kéo cái thấy cho bằng với mặt trời sao ? Nếu xây vách tường làm cho cái thấy bị ngăn cách, vậy khi đục một lỗ nhỏ, sao chẳng thấy dấu tích nối liền của sự thấy ? Nghĩa này chẳng đúng. Tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay, mê mình là vật, lạc mất Bản-tâm, tùy vật xoay chuyển, nên thấy lớn thấy nhỏ. Nếu chuyển được vật thì đồng với Như-lai, ngồi bất động đạo tràng, thân tâm tròn đầy sáng tỏ, gồm mười phương quốc độ trên đầu một mảy lông.
- Bạch Thế Tôn ! Nếu Kiến-tinh này là Diệu-tánh của con, thì Diệu-tánh nay ở ngay trước mắt; Diệu-tánh đã là con thì thân tâm con lại là vật gì ?
- Nếu nói thân tâm chẳng phải Diệu-tánh thì nay thân tâm thật hay phân biệt sự vật; nếu nói trước mắt đều là Diệu-tánh, thì cái Kiến-tinh kia sao lại chẳng phân biệt được thân con ?
- Nếu nói Kiến-tinh vô hình, mà có tự thể đồng như các vật, có cảm ứng mới sanh khởi sự dụng kia, thật là Bản-tâm của con thì phải cho con thấy ngay, vậy Kiến-tinh trước mắt là thật con, còn thân này thì chẳng phải con, thế thì Kiến-tinh đã ở bên ngoài thân, sao được gọi là Diệu-tánh của con ? Có khác gì Như-lai trước kia đã hỏi gạn rằng : "Vật thấy được con" ? Mong Phật từ bi khai-thị cho kẻ chưa ngộ.
Phật bảo A-nan :
- Nay ngươi nói Kiến-tinh ở trước mắt ngươi, nghĩa này chẳng đúng. Nếu thật ở trước mắt ngươi mà ngươi thật thấy được, thì Kiến-tinh này đã có phương sở, chẳng phải không chỉ ra được. Nay Ta cùng ngươi ngồi trong rừng Kỳ-đà, xem khắp rừng suối và điện đường, trên từ nhật nguyệt, dưới đến sông Hằng, ngươi hãy ở trước tòa sư tử của Ta, dùng tay chỉ rõ đủ thứ tướng ấy, chỗ mát là rừng, sáng là mặt trời, ngăn ngại là vách, thông là hư không, cho đến cỏ cây, chỉ mành, lớn nhỏ dù khác, hễ có hình tướng thì đều chỉ ra được. Nếu Kiến-tinh thật ở trước mắt ngươi, thì ngươi phải dùng tay xác thật chỉ rõ cái nào là Kiến-tinh. A-nan nên biết, nếu hư không là Kiến-tinh thì cái nào là hư không ? Nếu vật là Kiến-tinh thì cái nào là vật ? Ngươi hãy ở nơi vạn tượng phân tích kỹ càng, chỉ cho ta xem cái Kiến-tinh sáng tỏ ấy, rõ ràng đồng như các vật, chẳng được lầm lẫn !
A-nan nói :
- Nay con ở giảng đường này; nhìn ra từ sông Hằng, trên đến nhật nguyệt, tùy nơi tay chỉ mắt nhìn, những gì chỉ được đều là vật chứ chẳng phải Kiến-tinh. Thế Tôn, như lời Phật vừa nói; chẳng những hàng hữu lậu sơ học Thanh-văn như chúng con, cho đến Bồ-tát, cũng chẳng thể ở nơi vạn tượng chỉ ra cái Kiến-tinh lìa tất cả vật riêng có tựtánh.
Phật nói :
- Đúng thế ! Đúng thế !
Phật lại bảo A-nan :
- Như lời ngươi nói, chẳng có Kiến-tinh lìa tất cả vật riêng có tựtánh, vậy thì trong các vật mà ngươi chỉ, chẳng có cái nào là Kiến-tinh. Nay Ta lại bảo ngươi : Ngươi và Như-lai ngồi trong rừng Kỳ-đà, xem từ rừng cây cho đến nhật nguyệt, đủ thứ hình tướng sai biệt, nhất định chẳng có Kiến-tinh cho ngươi chỉ, ngươi hãy phát minh nơi những vật kể trên cái nào chẳng phải Kiến-tinh ?
A-nan đáp :
- Con xem khắp cả rừng Kỳ-đà, thật chẳng biết trong đó cái nào chẳng phải Kiến-tinh. Tại sao ? Nếu cây chẳng phải Kiến-tinh thì sao lại thấy cây ? Nếu cây là Kiến-tinh thì chẳng nên gọi là cây; như vậy cho đến nếu hư không chẳng phải Kiến-tinh thì sao lại thấy hư không ? Nếu hư không là Kiến-tinh thì chẳng nên gọi là hư không. Con lại suy xét kỹ càng, phát minh trong vạn tượng không vật nào chẳng phải Kiến-tinh cả.
Phật nói :
- Đúng thế ! Đúng thế !
Bấy giờ, những người chưa đến bậc vô học trong Chúng nghe Phật nói vậy, ngơ ngác chẳng hiểu đầu đuôi của nghĩa này, đánh mất lý lẽ đã hiểu biết từ xưa nay, bỗng nhiên cảm thấy run sợ,
Như-lai biết họ băn khoăn lo sợ, sanh lòng thương xót, an ủi A-nan và Đại Chúng :
- Các Thiện-nam-tử, lời chơn thật của Vô Thượng Pháp Vương chẳng dối chẳng vọng, như sở như thuyết, chẳng phải như bốn thứ tà thuyết càn loạn bất tử của bọn Mạc-già-lê, các ngươi hãy suy xét kỹ, chớ nên làm mất lòng tự tin !
LƯỢC GIẢI
Tại sao ngơ ngác chẳng biết đầu đuôi của nghĩa này ? Vì trước thì nói Kiến-tinh chẳng phải vật, sau lại nói Kiến-tinh đều là vật; trước nói Diệu-tánh hiện tiền, sau lại nói chẳng thể chỉ ra, nên ngơ ngác đánh mất lý lẽ đã hiểu biết từ xưa nay vậy.
"Nói lời chơn thật, như sở như thuyết" v.v... tức ngũ ngữ trong Kinh Kim Cang. Phật thuyết chơn ngữ là nghĩa chung với Nhị-thừa (có sanh tử để diệt, có Niết-bàn để chứng);thật ngữ là nghĩa chung với Bồ-tát (nghĩa Đại-thừa, sanh tử và Niết-bàn đều như hoa đốm trên không); như ngữ là nghĩa chẳng chung với Tam-thừa (trí huệ chẳng thể suy lường, lời nói chẳng thể diễn tả) vô thật vô hư. Vô hư nên bất cuống ngữ (chẳng dối), vô thật nên bất dị ngữ (thấy trước việc chưa đến gọi là Bất Dị). Ở đây chỉ dùng hai chữ "chẳng vọng" để bao gồm.
Bà-saLuận nói : Ngoại-đạo chấp cõi Trời thường trụ gọi là Bất-tử, cho "chẳng đáp càn" được sanh cõi trời ấy, nếu thật chẳng biết mà đáp càn, sợ thành càn loạn, nên có ai hỏi thì đáp rằng "Lời bí mật chẳng nên nói hết", hoặc đáp chẳng định. Phật quở rằng : Họ thật là kẻ càn loạn vậy.
*****
7. Khai Thị Năng Sở
Lúc ấy, Pháp-vương-tử Văn-thù-sư-lợi thương xót Tứ Chúng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, chắp tay cung kính bạch Phật rằng :
- Đại Chúng trong Hội này chẳng ngộ hai nghĩa Thị& Phi Thị với Kiến-tinh và Sắc-Không của Như-lai vừa hiển bày. Thế Tôn, những hiện tượng sắc không nơi trước mắt, nếu là Kiến-tinh thì phải chỉ ra được, nếu chẳng phải Kiến-tinh thì chẳng thể thấy. Nay chẳng biết nghĩa ấy do đâu, nên có kinh sợ chứ chẳng phải vì xưa kia thiện căn thiếu kém, mong Như-lai từ bi phát minh những vật tượng và Kiến-tinh, trong đó chẳng có Thị và Phi Thị kia vốn là vật gì ?
Phật bảo Văn-thù và Đại Chúng :
- Mười phương Như-lai và Đại Bồ-tát tự trụ nơi Chánh-định, thoát khỏi căn trần, Kiến-tinh (năng kiến) với sắc không (sở kiến), ý năng tưởng, tướng sở tưởng vốn chẳng thật có, cũng như hoa đốm trên không, vậy Kiến-tinh và sắc không vốn là diệu thể trong sạch sáng tỏ của Vô Thượng Bồ-đề, sao lại có Thị hay Phi Thị ở trong đó ? Văn-thù, nay ta hỏi ngươi, như ngươi là Văn-thù, lại có Văn-thù nào Thị Văn-thù hay Phi Thị Văn-thù chăng ?
- Bạch Thế Tôn ! Đúng thế, con là chơn Văn-thù, chẳng Thị Văn-thù. Tại sao ? Nếu có Thị tức có hai Văn-thù, mà nay chẳng phải không có Văn-thù, trong đó thật chẳng có hai tướng Thị và Phi.
Phật nói :
- Bản-kiến diệu minh với hư không và lục trần cũng đều như thế, vốn là Chơn-tâm sáng tỏ, tròn đầy trong sạch của Vô Thượng Bồ-đề, vọng thành sắc không và kiến văn, như đệ nhị nguyệt, vậy cái nào là Thị nguyệt, cái nào là Phi nguyệt ? Văn Thù, chỉ một Chơn nguyệt, trong đó vốn chẳng Thị nguyệt Phi nguyệt. Cho nên nay ngươi phát minh đủ thứ Kiến-tinh và cảnh trần, gọi là vọng tưởng, chẳng thể chỉ ra Thị hay Phi Thị. Vì Giác-tánh tinh diệu sáng suốt, nên khiến ngươi được vượt khỏi "Chỉ và phi chỉ" vậy.
A-nan bạch Phật rằng :
- Đúng như Pháp-vương nói, Bản-giác khắp mười phương thế giới, trạm nhiên thường trụ, tánh chẳng sanh diệt. Vậy với cái chấp Minh-đế của bọn Sa-tỳ-ca-la và những Ngoại-đạo nói có Chơn-ngã cùng khắp mười phương có gì sai biệt ? Thế Tôn đã từng ở núi Lăng Già giảng dạy nghĩa này cho Đại Huệ rằng : "Bọn Ngoại-đạo thường nói tự nhiên, Ta thuyết nhân duyên, chẳng phải cảnh giới của họ". Nay con xét thấy cái Giác-tánh tự nhiên này phi sanh phi diệt, xa lìa tất cả hư vọng điên đảo, hình như chẳng phải nhân duyên, vậy so với cái thuyết tự nhiên của bọn Ngoại-đạo như thế nào ? Xin Phật khai-thị để cho chúng con khỏi lọt vào bọn tà, được Giác-tánh chơn thật sáng tỏ của Diệu-tâm.
Phật bảo A-nan :
- Nay Ta dùng phương tiện chơn thật như vậy khai-thị cho ngươi, ngươi còn chưa ngộ, lại lầm cho là tự nhiên. A-nan, nếu chắc là tự nhiên thì tự phải xét rõ cái thể của tự nhiên, ngươi hãy quán xét trong Bản-kiến diệu minh này, lấy gì làm tự thể ? Lấy sáng làm tự thể hay lấy tối làm tự thể ? Lấy rỗng không làm tự thể hay lấy ngăn bít làm tự thể ? Nếu sáng là tự thể thì chẳng thể thấy tối, nếu rỗng không là tự thể thì chẳng thể thấy ngăn bít, như vậy cho đến nếu lấy tướng tối làm tự thể, thì khi sáng, tánh thấy đã đoạn diệt, sao lại thấy sáng ?
A-nan nói :
- Nếu Bản-tánh diệu kiến này chẳng phải tự nhiên, nay con phát minh là do nhân duyên sanh, nhưng tâm còn chưa rõ. Xin hỏi Như-lai : Nghĩa này như thế nào mới hợp với tánh nhân duyên ?
Phật bảo :
- Ngươi nói nhân duyên, Ta lại hỏi ngươi, nay ngươi nhân Kiến-tinh mà có tánh thấy hiện tiền, vậy cái thấy này nhân sáng có thấy hay nhân tối có thấy ? Nhân rỗng không có thấy hay nhân ngăn bít có thấy ?
- A-nan, nếu nhân sáng có thấy thì chẳng thể thấy tối; nếu nhân tối có thấy thì chẳng thể thấy sáng. Như vậy cho đến nhân rỗng không, nhân ngăn bít, đều đồng như sáng tối.
- Lại nữa, A-nan, Kiến-tinh này duyên sáng có thấy hay duyên tối có thấy ? Duyên rỗng không có thấy hay duyên ngăn bít có thấy ?
- A-nan, nếu duyên rỗng không có thấy thì chẳng thể thấy ngăn bít; nếu duyên ngăn bít có thấy thì chẳng thể thấy rỗng không. Như vậy cho đến duyên sáng duyên tối, đều đồng như rỗng không và ngăn bít.
- Nên biết cái Bản-giác diệu minh này phi nhân duyên, phi tự nhiên, phi bất tự nhiên. Vô Phi và Bất Phi, Vô Thị và Phi Thị, lìa tất cả tướng, là tất cả pháp. Nay ngươi sao lại ở trong đó dùng chấp tâm đuổi theo những danh tướng hý luận của thế gian, vọng khởi phân biệt, cũng như dùng tay nắm bắt hư không, chỉ tự lao nhọc, hư không làm sao cho ngươi bắt được ?
- Bạch Thế Tôn ! Nếu Bản-kiến diệu minh phi nhân phi duyên, tại sao Thế Tôn thường nói với các Tỳ-kheo rằng : Tánh thấy gồm đủ bốn thứ nhân duyên, tức là nhân không, nhân sáng, nhân tâm, nhân mắt, vậy nghĩa này thế nào ?
Phật nói :
- Ta thuyết những tướng nhân duyên của thế gian chẳng phải 'đệ nhất nghĩa'. A-nan, ta lại hỏi ngươi : Người thế gian nói "Tôi thấy", vậy cho thế nào gọi là thấy, thế nào gọi là chẳng thấy ?
A-nan đáp :
- Người thế gian nhờ ánh sáng nhật nguyệt và đèn, thấy tất cả tướng gọi là thấy, nếu không có ba thứ ánh sáng này thì chẳng thể thấy.
- A-nan, nếu lúc không sáng gọi là chẳng thấy, thì chẳng thể thấy tối, nếu thấy tối chỉ là không sáng thì sao gọi là chẳng thấy ?
- A-nan, nếu lúc tối chẳng thấy sáng gọi là chẳng thấy; mà lúc sáng chẳng thấy tối cũng phải gọi là chẳng thấy, vậy thì hai tướng sáng tối đều gọi là chẳng thấy. Do hai tướng sáng tối tự đoạt mất nhau, chẳng phải tánh thấy của ngươi tạm thời không có. Vậy thì cả hai đều là thấy, sao nói chẳng thấy ?
- A-nan nên biết, trong lúc thấy sáng, Kiến-tinh chẳng phải sáng; trong lúc thấy tối, Kiến-tinh chẳng phải tối; trong lúc thấy rỗng không Kiến-tinh chẳng phải rỗng không; trong lúc thấy ngăn bít, Kiến-tinh chẳng phải ngăn bít, bốn thứ nghĩa này vốn sẵn như vậy.
8. Lại ngươi nên biết :
Kiến kiến chi thời,
Kiến phi thị kiến,
Kiến do ly kiến,
Kiến bất năng cập.
Tại sao lại nói nhân duyên, tự nhiên và tướng hòa hợp ? Hàng Thanh-văn như các ngươi trí kém tâm hẹp, chẳng thông đạt thật tướng trong sạch, nay Ta dạy ngươi nên khéo suy tư, hãy siêng năng tinh tấn, thẳng vào diệu đạo Bồ-đề.
LƯỢC GIẢI
Hai chữ Kiến Kiến tức là Bản-kiến tự hiện, chẳng có năng kiến, sở kiến, Phật đã giải thích kỹ càng trong quyển nhì này; nếu có năng sở, đều là kiến bệnh đã thành từ vô thỉ, có năng kiến năng giác đều là bệnh. Vì Bản-kiến bản giác chẳng ở trong bệnh mới gọi là kiến kiến, tức là Kiến-tánh. Tự-tánh chẳng phải sở kiến, nên cũng chẳng có năng kiến để kiến Tự-tánh, vậy 'lúc kiến kiến' (Kiến kiến chi thời) dù nói kiến nhưng chẳng phải là kiến (Kiến phi thị kiến), vì chẳng có năng kiến và sở kiến, cho nên nói kiến còn phải lìa kiến (kiến do ly kiến), vì Năng-kiến chẳng thể thấy đến, nên nói Kiến bất năng cập.