Tổ Sư Thiền
Lúc sanh tiền có người hỏi thầy Duy Lực rằng :
Ngài đáp : Nếu mà là cái gì thì chẳng phải Tổ sư thiền !
Thật là khó phải không các bạn ! bởi Thiền là vô ngôn mặc khế (Tổ sư thiền tức chẳng phải Tổ sư thiền chỉ là tên gọi Tổ sư thiền). Lời đáp trên không chỉ đúng với Tổ sư thiền mà đúng cho Như Lai thiền và cho tất cả pháp nữa ! đây là Đệ nhất nghĩa đế (cú thứ I).
Bạn là bậc thượng căn thì xem tới đây sẽ tắt máy đi ngủ, nếu chưa phải thì coi tiếp phần giới thiệu dưới đây của Ngài:
Tổ-sư-thiền là pháp Thiền-trực-tiếp do phật Thích-ca đích thân truyền cho sơ Tổ Ma-ha-ca-diếp, rồi truyền cho nhị Tổ A-nan, tam Tổ Thương-na-hòa-tu, từ Tổ từ Tổ truyền xuống, đến Tổ thứ 28 là Bồ-đề-đạt-ma truyền sang Trung quốc làm sơ Tổ Trung-quốc rồi truyền cho người Trung quốc là nhị Tổ Huệ Khả, tam Tổ Tăng Xán, tứ Tổ Đạo Tín, ngũ Tổ Hoằng Nhẫn, lục Tổ Huệ Năng v.v... Đến Thầy Thích Duy Lực là đời thứ 88 (kể từ Tổ Ca-diếp). Sự truyền thừa Tổ sư thiền (*).
Theo thực tế mà nói, Phật-giáo là giáo dục, truyền dạy Tâm-pháp dẫn đến giác ngộ cuối cùng, nhưng hiện nay nhiều người hiểu lầm cho là một Tôn-giáo mê tín. Nói giáo dục là bao gồm vũ trụ vạn vật, chẳng có một sự vật nào thiếu sót gọi là vạn pháp duy Tâm. Vì nguồn gốc của vạn sự vạn vật là Tâm-linh, nên phật Thích-ca nói tất cả do Tâm tạo.
Vậy Tâm là thế nào ?
Tâm là một danh từ ai cũng nói được, nhưng Tâm là gì thì chẳng ai biết. Tổ thứ 14 của Thiền-tông Ấn-độ là ngài Long Thọ dùng "hư không vô-sở-hữu" để thí dụ cho Tâm. Tâm-linh vốn không có hình thể số lượng. Do đó dùng bộ não suy nghĩ chẳng thể tiếp xúc, nên chẳng thể dùng lời nói văn tự để diễn tả. Phật-pháp chỉ có thể miễn cưỡng nói là Tánh-không. Dù nói Không, Không này tức là để hiển bày sự dụng của Tâm, cũng như hư không vô-sở-hữu mà dung nạp tất cả vật. Tất cả vũ trụ vạn vật từ Mặt-trăng, Mặt-trời, cho tới núi sông, đất đai, nhà cửa, cây cối, bất cứ cái gì đều phải nhờ cái vô-sở-hữu này dung nạp và ứng dụng.
Cuộc sống hằng ngày của con người như ăn cơm, mặc áo, nói chuyện, tiếp khách, làm việc đều phải nhờ cái vô-sở-hữu này mới được hiển bày, chỉ tiếc rằng chúng ta ứng dụng hằng ngày mà chẳng tự biết. Nên Phật Thích-ca dạy pháp Thiền-trực-tiếp (TST) để mọi người đều được tự hiện toàn vẹn chính Tâm mình. Cái giờ phút hiện ra Tâm mình gọi là Kiến-tánh thành Phật. Dù nói thành Phật thực chẳng có Phật để thành, chỉ là ở trong mở mắt chiêm bao tỉnh dậy mà thôi, cũng như ở trong nhắm mắt chiêm bao tỉnh dậy thì tự chứng tỏ tất cả sự vật trong chiêm bao đều chẳng thật gọi là Chứng-ngộ.
Tham Tổ-sư Thiền tức là : Tham thoại-đầu và Khán thoại đầu (*)
Nay nói sơ về cách thực hành : Thoại là lời nói, đầu là đầu tiên lời nói. Nghĩa là khi chưa khởi ý niệm muốn nói gọi là "thoại-đầu". Tham là hỏi câu thoại để kích thích sự không hiểu không-biết. Khán là nhìn chỗ không-biết (thoại-đầu), muốn xem chỗ không-biết đó là gì ? Chỗ không-biết thì không có chỗ, không có chỗ thì không có mục tiêu để nhìn. Nên nhìn mãi không thấy gì vẫn còn không-biết, chính cái muốn biết (hiểu) mà biết không được đó Thiền-tông gọi là nghi-tình. Hành-giả tham thiền cứ hỏi (tham) và nhìn (khán) đồng thời đi song song để phát khởi nghi-tình. Nghi-tình này sẽ đưa hành-giả đến thoại-đầu.
Thoại-đầu tức là vô-thuỷ vô-minh, cũng gọi là "đầu sào trăm thước", cũng là nguồn gốc của ý-thức. Từ đây tiến lên một bước ngay đó liền lìa ý-thức bỗng dứt hết nghi. Cái sát-na lìa ý-thức đó gọi là Kiến-tánh thành Phật, tức là Trí-bát-nhã được hiện hành khắp không-gian và thời-gian, sự hiểu biết chẳng còn gì thiếu sót. Giáo-môn gọi là Chánh-biến-tri.
Ghi chú : (*) phần chữ xanh gạch dưới có chứa liên kết âm thanh khai thị của thầy Duy lực.