03:14 ICT Thứ hai, 02/12/2024

Trang nhất » Giới Thiệu

Thiền sư Đại Huệ

Đại Huệ Thiền-sư (1088 - 1163) đời thứ 12 phái Lâm Tế là một Thiền-sư triệt ngộ, phương tiện cơ xảo rất xuất sắc nổi tiếng từ lúc đương thời cho đến ngày nay. Các bậc Sĩ-phu, Quan lại triều đình từ Thừa-tướng, Thượng-thư... đều quy y học thiền với Ngài và có nhiều người đã được Chứng-ngộ. Ngữ-lục của Ngài cũng đã được dịch sang tiếng Anh tên sách là THE LETTERS AND LECTURES OF ZEN MASTER TA HUI, do CHRISTOPHER CLEAREY dịch. 
 

Sư là người Tuyên Thành, họ Hy. Mẹ chiêm bao thấy một vị Tăng mặt đen mũi cao có Thần hộ vệ đến phòng.

Mẹ hỏi : Ông ở đâu ?

Tăng ấy đáp : "Ở núi cao lớn này", từ đó có thai. Năm thứ 4 niên hiệu Nguyên Hựu, Vua Triết Tông đời Tống, Sư sanh giờ Tỵ, mồng 10 tháng 11, bạch quang thấu qua phòng, cả Ấp đều cảm thấy kỳ lạ.

Năm 16 tuổi Sư xuất gia, 17 tuổi xuống tóc, rất ham việc của Thiền-tông, xem khắp Ngữ-lục của Chư Tổ. Đối với năm Phái của Thiền-tông, Sư cảm thấy nghi ngờ : "Tại sao ban đầu chỉ có một Tổ Đạt-ma mà nay lại có nhiều Môn-phái như vậy ?"

Sư tánh tình phong lưu thanh nhàn, năm 19 tuổi du phương. Ban sơ đến am Bôi Độ thuộc quận Thái Bình, Trụ-trì tiếp đãi rất cung kính, nói :

- Hôm qua mơ thấy Thần Già-lam bảo ngày mai có Thiền-sư Vân Phong đến, nên tiếp đãi tử tế.

Khi ấy có một Tôn-túc nghe rồi đem Ngữ-lục của Vân Phong cho Sư. Sư vừa xem qua liền tự tụng được, vì thế người ta cho Sư là hậu thân của Vân Phong.

Kế đó, Sư đi yết kiến Trình Thiền-sư thỉnh ích về bài Tụng của Tuyết Đậu. Trình chẳng nói một lời để Sư tự kiến tự thuyết. Sư ngay đó thấu đạt ý chỉ.

Trình khen rằng : Tông Cảo ắt hẳn là người tái lai.

Rồi Sư qua Đại Dương gặp Thủ-tọa Nguyên, đến Động Sơn gặp Vi Hòa-thượng và Thủ-tọa Kiên. Sư qua lại với Thiền-hội ba ông này rất lâu, biết hết tông chỉ của Tào Động. Nhưng thấy họ đang khi truyền thọ nhau phải dùng hương đốt trên cánh tay để biểu thị sự phó pháp chẳng vọng, trong bụng nghĩ thầm rằng : "Thiền mà có truyền thọ như thế đâu phải là cái Pháp tự chứng tự ngộ của chư Phật chư Tổ", rồi bỏ đi tham vấn các nơi.

Khi đến chỗ Hòa-thượng Sơ chùa Phụng Thánh, gặp nhằm Sơ đang thượng đường, Sư ra hỏi :

- Theo lời Hòa-thượng nói : "Kim-liên từ, dưới đất nổi lên, Bảo-cái từ trên trời thòng xuống'', ấy là diệu dụng của thần thông hay là pháp tự vốn như thế ?

Sơ đáp : Kim-liên từ dưới đất nổi lên, Bảo-cái từ trên Trời thòng xuống.

Sư nói : Loan phụng chẳng đậu cây gai góc, chim yến còn luyến ổ thời xưa.

Sơ nói : Ba năm chẳng gặp nhau bèn có đủ thứ việc.

Sư nói : Chỉ như Tăng vừa nói : "Ngày xưa Thế-tôn, hôm nay Hòa-thượng" lại là thế nào ?

Sơ liền hét.

Sư nói : Một tiếng hét này chưa có Chủ.

Sơ quay đầu lấy cây gậy hơi chậm.

Sư nói : Linh-cơ như điện chớp, đâu nhọc để suy tư.

Rồi vỗ tay một cái, trở về Chúng.

Sau đó đi tham bái Tâm-ấn Thuần Công, Thuần chỉ Sư đến Bảo Phong y chỉ Trạm-Đường Chẩn Công. Lúc Sư mới đến, tỏ ra cơ biện tung hoành.

Một hôm Trạm Đường hỏi :  Lỗ mũi ngươi hôm nay vì sao mất hết nửa bên ?

Đáp : Dưới cửa Bảo Phong.

Trạm Đường nói : Kẻ thiền bày đặt.

Một ngày kia ở chỗ tượng Thập-vương, hỏi : Ông quan này họ gì ?

Sư đáp : Họ Lương (Trạm Đường họ Lương).

Trạm Đường dùng tay tự vò đầu nói : Chỉ tiếc họ Lương này thiếu cái nón.

Đáp : Dù không có nón, lỗ mũi giống hệt.

Trạm Đường nói : Kẻ thiền bày đặt.

Sư đang xem kinh, Trạm Đường hỏi : Xem Kinh gì ?

Đáp : Kinh Kim Cang.

Đường nói : Pháp ấy bình đẳng chẳng có cao thấp, tại sao núi Vân Cư thì cao, núi Bảo Phong thì thấp ?

Sư đáp : Pháp ấy bình đẳng chẳng có cao thấp.

Đường nói : Người làm được một đày tớ của Tọa-chủ (Tọa-chủ là Pháp-sư giảng Kinh thuộc Giáo-môn).

Một hôm Sư đang đứng hầu, Trạm Đường nhìn thấy móng tay dài của Sư liền nói :

- Những miếng tre chùi đít trong nhà cầu chắc không phải ông rửa đâu ?

Sau khi nghe lời dạy của Trạm Đường suốt đời Sư không để móng tay nữa. Vừa mới dài ra một chút mà không cắt thì thấy Hòa-thượng Trạm Đường xuất hiện ngay trên đầu ngón tay.

Một hôm Đường hỏi :

- Thượng-tọa Cảo ! Thiền ta ở đây ngươi đều hiểu được, bảo ngươi nói cũng nói được, bảo ngươi làm bài tụng hoặc tiểu tham phổ thuyết ngươi cũng làm  được, chỉ có một việc còn chưa được, ngươi biết chăng ?

Sư hỏi : Việc gì ?

Đường nói : Ngươi chỉ thiếu một tiếng ''Ồ''. Nếu ngươi chẳng được tiếng ''Ồ'' này, khi nói chuyện trong phòng ta thì có thiền, khi ra khỏi thì hết, khi thức tỉnh thì có thiền, vừa mới ngủ liền hết. Nếu như thế làm sao địch với sanh tử được ?

Sư nói : Chỗ này chính là chỗ nghi của tôi đây.

Khi Trạm Đường sắp tịch, Sư hỏi : Sau khi Hòa-thượng tịch, tôi phải theo ai mới có thể liễu được việc lớn này ?

Đường nói : Có ông Khắc Cần, tôi dù không biết ông ấy nhưng ngươi ắt phải y chỉ ông ấy mới có thể liễu được việc của ngươi.

Sau khi Trạm Đường tịch, Sư đến Kinh Nam yết kiến Trương Vô Tận người đã kiến Tánh xin bài Tháp Minh (bài tán dương ghi ở Tháp).

Trương hỏi : Ông chỉ mang đôi dép cỏ từ xa đến như thế này.

Sư nói : Ông ta hành cước từ mấy ngàn dặm đến gặp tướng công.

Trương hỏi : Ông bao nhiêu tuổi ?

Đáp : Hai mươi tám.

Trương lại hỏi : Con trâu bao nhiêu tuổi ?

Sư đáp : Hai cái !

Trương lại hỏi nữa : Từ đâu học được cái giả dối này ?

Sư đáp : Hôm nay thân gặp Tướng-công.

Trương cười nói : Hãy ngồi uống trà.

Vừa ngồi xuống, Trương hỏi : Từ xa đến có việc gì ?

Sư đến gần nói : Hòa-thượng Trạm Đường thị tịch. Sau khi hỏa táng, con mắt răng và hột chuỗi chẳng hoại, Xá-lợi vô số. Xin đại thủ bút làm bài Minh để khích lệ kẻ hậu học.

Trương nói : Có lời hỏi ông, nếu đáp được thì làm bài Minh ghi tháp.

Sư nói : Xin tướng công hỏi ?

Trương nói : Nghe nói con mắt Trạm Đường chẳng hoại phải chăng ?

Đáp : Phải.

Trương nói : Ta chẳng hỏi con mắt này.

Sư nói : Tướng-công hỏi con mắt gì ?

Trương nói : Con mắt kim cương.

Sư nói : Nếu nói con mắt kim cương tức là ở trên đầu bút của Tướng-công.

Trương nói : Nếu vậy thì lão-phu sẽ điểm ra ánh sáng khiến cho chiếu khắp Thiên-hạ.

Sư cảm tạ. Trương liền làm bài Minh.

 

Sư đi yết kiến các Thiền-sư danh tiếng như Linh Nguyên, Thảo Đường, đều được họ tán thán. Thiền-sư Giác Phạm xem bài Tụng "Thập trí đồng chân" của Sư :

Lông rùa sừng thỏ trồng trong mắt.

Núi sắt ngay mặt thấy nguy nga.

Đông tây nam bắc chẳng cửa vào.

Vô minh nhiều kiếp liền thành tro.

Rồi than rằng : Lạ thay, tôi công phu hai mươi năm cũng chỉ nói đến được chỗ này.

Sư trước khi gặp Viên Ngộ (tức là Khắc Cần) tự nghĩ rằng : "Lấy một hạ làm kỳ hạn. Nếu họ cũng vọng cho là ta đã đúng như các nơi khác thì ta sẽ tác bài Vô Thiền Luận để khỏi hao tinh thần, uổng qua ngày tháng".

Sư khi đã gặp Viên Ngộ, sớm chiều tham vấn. Viên Ngộ đem câu "Đông Sơn đi trên mặt nước" của Vân Môn cho Sư tham.

Sư trình qua 49 chuyển ngữ, Ngộ đều lắc đầu.

Một hôm Ngộ thăng toà đề ra lời của Vân Môn rằng :

"Thiên Ninh thì chẳng như thế ! Nếu có người hỏi : Thế nào là chỗ xuất thân của chư Phật ? chỉ đáp họ rằng : Gió nhẹ từ hướng nam đến thì cung điện tỏa hơi mát".

Sư liền hoát nhiên tỉnh ngộ, bạch với Ngộ. Ngộ xét Sư dù chứng đắc, được tướng động chẳng sanh, tiền hậu chấm dứt, nhưng lại ngồi chỗ trong sạch thanh tịnh, nên nói với Sư rằng :

- Ngươi đến được mức này cũng chẳng phải dễ, chỉ tiếc rằng chết rồi không sống lại, vì chẳng nghi ngữ cú là bệnh lớn. Phải biết ''Vực thẳm buông tay, thẳng tự thừa đương, tuyệt hậu tái tô (chết đi sống lại), gạt ông chẳng được''. Ngươi nên biết có Đạo-lý này.

Sư nói : Tôi tùy chỗ chứng đắc hôm nay đã là sung sướng, đâu còn màng đến gì khác.

Ngộ bảo Sư làm Tri Khách. Hàng ngày chuyên tiếp đãi những ông quan Trí-thức.

Sư mỗi ngày vào phương trượng ba bốn lần, mỗi khi Viên Ngộ đề ra câu hỏi : "Hữu cú vô cú, như tầm dựa cây, bỗng tầm khô cây ngã thì cú đi về đâu ?".

Sư vừa mở miệng, Ngộ liền nói : "Chẳng phải !".

Như thế trải qua nửa năm, trong tâm niệm niệm chẳng quên. Một hôm cùng dùng cơm với khách, Sư cầm đũa trong tay mà quên lùa cơm vào miệng. Ngộ cười rằng : Ông này tham thiền như cây dương vàng bị co rút trở lại.

Sư nói : Lý này giống như con chó nhìn chảo dầu sôi, muốn nếm, nếm chẳng được, muốn bỏ, bỏ chẳng được.

Ngộ nói : Thí dụ này rất hay. Ấy tức là vòng kim cương, hạt có gai, nuốt chẳng được, ói chẳng được.

Một hôm Sư hỏi rằng : Nghe nói Hòa-thượng có hỏi về lời này, không biết khi ấy Sư ông nói chi ?

Ngộ cười mà không đáp.

Sư nói : Khi ấy phải ở trong Chúng hỏi. Bây giờ nói ra đâu có ngại gì ?

Ngộ kể : Ta hỏi ''hữu cú vô cú, như tầm dựa cây" ý chỉ thế nào ? Sư-ông nói : Miêu tả chẳng được, vẽ cũng chẳng thành. Ta hỏi tiếp : Khi tầm khô cây ngã thì thế nào ? Sư ông nói : Cứ đi theo tới vậy !

Sư ngay đó hoát nhiên đại ngộ, nói : Ta hội rồi !

Ngộ bèn đề ra mấy Công-án đảo lộn để cật vấn. Sư trả lời không chút trệ ngại.

Ngộ nói : Nay mới biết ta không dối ngươi. Rồi phó pháp Lâm Tế chánh tông cho Sư.

Sư đã triệt ngộ, lại đối với Công-án "Mấy thiền khách" (1) có nghi mà hỏi Viên Ngộ.

Ngộ nói :

- Thiền ta đây giống như biển lớn, ngươi nên đem biển lớn đổ bỏ mới được. Nếu chỉ đem bình bát đựng được một chút cho là đủ, là do ngươi khí lượng nhỏ hẹp, ta cũng chẳng có cách nào. Thật ra cũng ít có người được đến chỗ điền địa như ngươi. Trước kia chỉ có Thượng-tọa Cảnh ngộ bằng như ngươi nhưng đã chết rồi.

Viên Ngộ cho Sư ngồi tọa phó, cầm cây gậy để khám xét thiền giả.

(1) Công-án "Mấy thiền khách" :

Pháp Diễn Thiền-sư ngộ chưa triệt để. Thầy là Bạch Vân Thiền-sư dùng phương tiện rằng :

- Có mấy thiền khách từ Lư Sơn đến đều có chỗ ngộ nhập. Bảo y nói cũng nói được có lý do, đem những nhân duyên hỏi y, y cũng rõ được, bảo y hạ chuyễn ngữ, y cũng hạ được, nhưng mà chưa đắc.

Pháp Diễn do đó đại nghi, tự nghĩ thầm :

- Đã ngộ rồi, nói cũng nói được, rõ cũng rõ được, tại sao lại chưa đắc ?

Bèn tham cứu suốt ngày bỗng nhiên tĩnh ngộ, việc quý trọng xưa kia ngay đó buông sạch, liền được Bạch Vân ấn chứng.

Sư sau này nói với người rằng :

- Ta do đó cả thân xuất mồ hôi trắng, liền rõ được thanh phong khúc dưới (phá mạt hậu quan).  

Thiền-giả từ các Tòng-lâm tấp nập quy tụ theo Sư học hỏi.

Sư xem kinh Hoa Nghiêm đến lời văn Bát-địa, thấu triệt được Công-án khi xưa "Hỏi Trạm Đường về nhân duyên Ương Khoát vâng lời Phật cứu sản nạn (sinh khó)" (1).

Trước kia Sư dùng lời này để hỏi Trạm Đường, Trạm Đường nói :

- Chính là gãi đúng chỗ ngứa của ta. Lời này là pháp vàng với phẩn, chẳng hội như vàng, hội được như phẩn.

Sư hỏi : Há chẳng có phương tiện ư ?

Đường nói : Ta có cái phương tiện, chỉ e ngươi không hội.

Sư nói : Xin Hòa-thượng từ bi chỉ dạy.

Đường nói : Ương Khoát rằng : "Ta mới nhập đạo chưa biết pháp này, đợi ta đi hỏi Thế-tôn. Nếu ta khi chưa đến chỗ Phật mà nhà họ đã sanh ra đứa con thì sao ?". "Ta từ pháp Hiền-thánh đến nay chưa từng sát sinh". Khi Ương-Khoát đem lời này chưa đến nơi, nếu nhà họ đã sanh đứa con thì sao ?

Sư cảm thấy mịt mù.

Đến bấy giờ đọc Kinh đến chỗ Bồ-tát lên đệ Thất-địa chứng Vô-sanh-pháp-nhẫn rồi nói : "Phật-tử ! Bồ-tát thành tựu nhẫn này tức thì đắc nhập Bất-động-địa, bậc Bồ-tát thứ tám. Ấy là thâm hạnh Bồ-tát, rất khó biết, chẳng sai biệt, lìa tất cả tướng, tất cả tưởng, tất cả chấp trước, vô lượng vô biên, tất cả Thinh-văn, Bích-chi-phật đều chẳng thể đến, lìa những ồn ào tranh biện, tịch diệt hiện tiền. Ví như Tỳ-kheo thần thông đầy đủ, được tâm tự tại, lần lượt cho đến nhập Diệt-tận-định, tất cả động tâm ghi nhớ, tư tưởng phân biệt thảy đều ngưng nghỉ, Bồ-tát Ma-ha-tát này cũng như thế. Trụ nơi bất động địa liền xả tất cả công dụng, hành pháp vô-công-dụng, thân khẩu ý nghiệp niệm niệm đều dứt. Trụ nơi Báo-hạnh, ví như có người trong mộng thấy thân rớt xuống sông vì muốn qua sông nên phát đại dũng mãnh, dùng đại phương tiện, do đại dũng mãnh và đại phương tiện đó liền được tĩnh ngộ, đã Giác-ngộ xong, tất cả việc làm đều hết, Bồ-tát cũng vậy, thấy thân chúng sanh trôi nổi giữa sông, vì muốn cứu độ, phát đại dũng mãnh, khởi đại tinh tấn, nhờ dũng mãnh tinh tấn đó được đến chỗ Bất-động-địa này, đã đến đây rồi thì tất cả công dụng thảy đều ngưng nghỉ, hai hạnh tướng và hành đều chẳng hiện tiền. Khi ấy tâm của Bồ-tát Ma-ha-tát này đối vối Phật-tâm, Bồ-đề-tâm, Niết-bàn-tâm còn chẳng sanh khởi huống là sanh khởi những tâm thế gian".

Sư xem đến đây hoát nhiên đánh mất túi vải (chứng ngộ triệt để).

Lời phương tiện của Trạm Đường bỗng nhiên hiện tiền. 

(1) Nhân duyên Ương Khoát cứu sản nạn :

Ương Khoát đang đi khất thực, đến nhà sản nạn. Nhà ấy cầu Ương Khoát cứu giúp, Ương Khoát nói :

- Tôi mới nhập đạo chưa biết pháp này, đợi tôi đi hỏi Thế-tôn đã.

Liền về hỏi Phật, Phật bảo :

- Ngươi đến trước sản phụ nói : "Ta từ pháp Hiền-thánh đến nay chưa từng sát sanh" thì sẽ xong việc.

Ương Khoát nói y lời Phật, sản phụ nghe được liền sanh con dễ dàng.  

*

Viên Ngộ làm trụ trì núi Vân Cư, thỉnh Sư làm Thủ-tọa.

Ngày Đông Chí, Sư thăng tòa, có Thiền-sư Nguyên ra hỏi : Khi trên mày treo kiếm là thế nào ?

Sư đáp : Máu tát trời Phạm-thiên !

Ngộ đang ngồi dưới tòa giơ tay khen ngợi rằng : Câu hỏi rất hay, câu đáp lại hay hơn nữa !

Nguyên liền trở về Chúng.

Sư mỗi lần nhập Thất (nhập thất để cho Tăng Chúng vào phòng tham hỏi), Viên Ngộ thường đến nghe.

Một hôm nhập Thất xong, Sư lên phương-trượng, Ngộ nói :

- Nếu có một Thiền-giả được như Lão-tăng thì ngươi sẽ đối đáp như thế nào ?

Sư nói : Vậy là may quá, cũng như Tô Đông Pha nói : Làm suốt đời Đao-phủ-thủ mới được gặp một ông mập để chém.

Ngộ cười ha hả rằng : Vậy thì ngươi nhập Thất cho ta, bức bách khiến ta leo vách tường xem !

Rồi Ngộ hỏi : Đạt-ma đến, đem gì truyền thọ ?

Sư đáp : Đâu thể trọn cho là kiến giải Hồ-ly-tinh.

Ngộ hỏi nữa : "Nắm đầu hổ, bắt đuôi hổ, thấu tông-chỉ dưới câu thứ nhất", thế nào là câu thứ nhất ?

Đáp : Đó là câu thứ nhì !

Ngộ thường nói với Chúng : Gần đây Thiền-hội các nơi đều thành hang ổ. Dưới Thiền-hội núi Ngũ-tổ, ta với Phật Giám, Phật Nhãn ba người cùng nhau tham-thiền. Nay đã thấy xuất hiện nhiều yêu quái. Dưới thiền-hội Phật Giám có một hạng người làm con chó sủa, bồ câu kêu, khiến thiên hạ cười. Dưới thiền-hội Phật Nhãn cũng có một hạng người làm bộ vẻ nhìn đồn điền, cây cột, chỉ Đông chỉ Tây, giống như trước mắt thấy ma quỷ. Ở đây thì chẳng có hai thứ bệnh này.

Sư nói : Đập đá lửa, chớp tia sáng, làm cho nhiều người đuổi theo nghiệp-thức, thầy vừa đề ra thì trò ngay đó hiểu liền, há chẳng phải là lọt vào hang ổ lớn của Phật-pháp ư ?

Ngộ bất giác le lưỡi, nói rằng : Chớ nên màng đến họ. Ở đây chỉ lấy chứng-ngộ làm tiêu chuẩn. Nếu chẳng chứng-ngộ ta nhất định chẳng thả cho qua.

Sư nói : Chứng-ngộ thì được. Nếu thầy vừa đề ra trò liền ngộ, cứ truyền nhau mãi như thế, lấy đập đá lửa chớp tia sáng ấy là làm cho nghiệp-thức mang mang đến ngày nào mới hết.

Ngộ liền ấn chứng cho.  

 

Ngữ-lục của Ngài đã được thầy Duy Lực dịch sang chữ Việt với tựa đề Đại Huệ Ngữ Lục mời các bạn tìm đọc.