14:37 ICT Thứ ba, 05/11/2024

Giới Thiệu

Hoài niệm ân sư

I. THỜI THƠ ẤU :        Sư hiệu DUY LỰC, tự GIÁC KHAI, thế danh LA DŨ sanh ngày 05 tháng 05 năm 1923, tại làng Long Tuyền (Bình Thủy), Tỉnh Cần Thơ (VN). Cha tên La Xương và Mẹ tên là Lưu Thị làm nghề nông, nguyên là người làng Long Yên, huyện Phong Thuận phủ Triều Châu, tỉnh...

Danh mục chính

Liên Kết Trang

TS DUC SON
HUE NANG
TS NGUYET KHE

Trang nhất » Tông Phong Tàng Thư » Kinh » Kinh Lăng Già

Kinh Lăng Già Quyển 4 - Phần 2

Chủ nhật - 07/04/2013 10:57 Xem: 1764
Khi ấy, Đại huệ Bồ-tát lại bạch Phật rằng :

- Thế Tôn ! Tất cả Ngoại-đạo đều khởi vọng tưởng vô thường, Thế Tôn cũng thuyết tất cả hành vô thường là pháp sanh diệt. Thế Tôn ! Nghĩa này thế nào ? Là tà hay chánh ? Có mấy thứ vô thường ?

Phật bảo Đại huệ :

- Tất cả Ngoại-đạo có bảy thứ vô thường, chẳng phải pháp Ta thuyết vậy. Thế nào là bảy ? Họ hoặc nói tạo rồi liền bỏ gọi là vô thường; hoặc nói hình xứ hoại gọi là vô thường; hoặc nói ngay sắc thể đó là vô thường; hoặc nói giữa quá trình biến chuyển gọi là vô thường, các vật tự thể tan hoại chẳng gián đoạn, như sự chuyển biến của sữa thành tô lạc, ngay giữa chuyển biến chẳng thể thấy, tất cả tánh chuyển biến vô thường hủy hoại cũng như thế. Hoặc nói tánh vô thường; hoặc nói tánh, vô tánh vô thường; hoặc nói tất cả pháp bất sanh vô thường, v.v... Họ đem những kiến chấp vô thường này vào tất cả pháp.

1. Đại Huệ ! Ngoại-đạo nói Tạo Rồi Liền Bỏ là Vô Thường. Ta nói lìa kẻ bắt đầu tạo ra vô thường thì chẳng phải tứ Đại. Vì tứ Đại bất sanh là nghĩa Thường, nếu còn có pháp khác với tứ Đại, mỗi mỗi tự tướng khác nhau thì chẳng có sai biệt để đắc, vì sai biệt ấy đều chẳng thể tạo nữa. Hai thứ phân biệt chẳng thể tạo (chẳng có kẻ bắt đầu tạo vô thường, cũng chẳng có kẻ bắt đầu tạo thường), nên biết vô thường tức là thường.

2. Ngoại-đạo nói Hình Xứ Hoại là Vô Thường. Ta nói tứ Đại và tứ Đại tạo sắc chẳng hoại, cứu cánh chẳng hoại. Đại Huệ ! Nói "Cứu cánh" là phân tích cho đến vi trần, quán sát sự hoại của tứ Đại và tứ Đại tạo sắc, thấy hình xứ dài ngắn và khác biệt đều bất khả đắc thì chẳng phải tứ Đại, nên nói tứ Đại chẳng hoại. Hiện "hình xứ hoại" là đọa nơi Số-luận.

3. Ngoại-đạo nói Ngay Sắc Thể tức là Vô Thường, ấy cũng là hình xứ vô thường, chẳng phải tứ Đại. Nếu tứ Đại vô thường thì chẳng phải ngôn thuyết thế tục, vì ngôn thuyết thế tục phi tánh. Thấy tất cả tánh chỉ có ngôn thuyết, chẳng thấy tự tướng sanh, là đọa nơi Thế-luận.

4. Ngoại-đạo nói Chuyển Biến Vô Thường. Ta nói sắc thể hiện khác với tánh, chẳng phải tứ Đại có khác. Như vàng làm ra nhiều đồ trang sức, hiện chuyển biến khác nhau nhưng chẳng phải tánh vàng có khác, chỉ là những đồ trang sức khác nhau thôi. Vậy các tánh kia chuyển biến cũng như thế.

5. Đại Huệ ! Nói Tánh Vô Thường là tự tâm vọng tưởng, chấp tánh phi thường là vô thường. Tại sao ? Nói vô thường của Tự-tánh bất hoại. Đại Huệ ! Đây là tất cả tánh vô tánh, là sự vô thường. Ngoài sự vô thường, chẳng có gì có thể khiến tất cả pháp tánh vô tánh; như gậy, ngói, đá, dù có tướng khác biệt, phá hoại rồi thì thấy mỗi mỗi chẳng khác, ấy là sự tánh vô thường, chẳng phải năng tác sở tác có sai biệt, đây là sự vô thường. Vì năng tác sở tác chẳng khác thì tất cả tánh vô nhân. Tánh vô nhân là thường. Đại Huệ ! Tất cả tánh vô tánh hữu nhân, chẳng phải phàm phu có thể biết. Phi nhân thì sự bất tương tự sanh khởi (cũng như cây lý có thể sanh ra cây đào, cây đào có thể sanh ra cây xoài, v.v...), nếu sanh khởi thì nói tất cả tánh thảy đều vô thường là có lỗi.

- Việc bất tương tự này, năng tác sở tác chẳng có sai biệt mà lại thấy có khác. Nếu nói tánh vô thường thì đọa tánh tướng có nhân, tác, có tác thì tất cả tánh chẳng cứu cánh. Nếu tất cả tánh đọa tướng có năng tác, thì năng tác vô thường, sở tác cũng vô thường; năng vô thường, sở vô thường thì tất cả tánh chẳng vô thường, vì vô thường thường sanh vô thường, tức là thường vậy.

- Nếu chấp vô thường vào tất cả tánh thì hoại nghĩa tam thế. Như sắc quá khứ vô thường ắt chẳng lìa hoại; nếu đã hoại thì vị lai bất sanh, nếu sắc bất sanh thì tướng sắc hiện tại cũng đồng như hoại. Nói Sắc là do tứ Đại tích tụ, có tánh sai biệt, tứ Đại và tứ Đại tạo sắc tự tánh chẳng hoại, lìa khác và chẳng khác. Tất cả Ngoại-đạo đối với nghĩa chẳng hoại, tứ Đại và tứ Đại tạo sắc nơi tất cả Tam-giới chẳng thể biết tánh vốn chẳng hoại, nên có sanh diệt. Nếu lìa tứ Đại tạo sắc, thì tất cả Ngoại-đạo dựa vào đâu mà suy nghĩ tánh vô thường ư ? Tướng Tự-tánh bất hoại thì tướng Tự-tánh bất sanh.

6. Đại Huệ ! Nói Tánh, Vô Tánh Vô Thường, là lìa tứ Đại và tứ Đại sở tạo, khi tự tướng hoại, tứ Đại tự tánh bất khả đắc, tức là bất sanh.

7. Nói Bất Sanh Vô Thường là phi thường vô thường. Tất cả pháp hữu và vô bất sanh, phân tích cho đến vi trần thì chẳng thể thấy, ấy là nghĩa bất sanh, phi sanh, gọi là tướng Vô thường Bất sanh. Nếu chẳng giác được nghĩa này thì đọa Ngoại-đạo sanh nghĩa vô thường.

- Mỗi mỗi Ngoại-đạo vọng tưởng có kiến chấp vô thường như thế, như lúc tứ Đại bị cháy mà tự tướng chẳng cháy. Nếu tướng của mỗi mỗi tự tướng thiêu hoại thì mỗi mỗi tạo sắc phải đoạn dứt, mà thật thì chẳng như thế.

- Đại Huệ ! Pháp ta nói phi thường phi vô thường. Tại sao ? Vì ngoài tánh chẳng thể quyết định, nên chỉ nói Tam-giới duy tâm, chẳng nói mỗi mỗi tướng có sanh có diệt. Tứ Đại hòa hợp có sai biệt là do tứ Đại và tứ Đại tạo sắc sanh ra vọng tưởng phân biệt. Có hai thứ năng nhiếp sở nhiếp, nếu biết hai thứ đều là vọng tưởng, lìa hai thứ kiến chấp ngoài tánh phi tánh, giác được vọng tưởng của tự tâm hiện lượng do tự tướng tác hành sanh khởi phân biệt mới có, sở tác nghiệp tướng gọi là vọng tưởng sanh, chẳng phải không có tư tưởng tác hành mà gọi là vọng tưởng vậy. Lìa vọng tưởng của tâm, tánh, vô tánh, tất cả pháp thế gian, xuất thế gian, cho đến siêu việt xuất thế gian, đều phi thường phi vô thường. Nếu chẳng biết tự tâm hiện lượng thì đọa ác kiến nhị biên tương tục. Tất cả Ngoại-đạo do tự vọng tưởng, chẳng biết ba thứ pháp tướng thế gian, pháp tướng xuất thế gian và thắng (siêu việt) pháp tướng xuất thế gian, dựa theo ngôn ngữ vọng tưởng thuyết mỗi mỗi pháp. Ta nói cảnh giới phi thường phi vô thường, chẳng phải phàm phu có thể hiểu biết, vì họ chẳng giác được tự tâm hiện lượng vậy.

Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết Kệ rằng :

Lìa sự bắt đầu tạo,

Và hình xứ khác biệt.

Nói tánh Sắc vô thường,

Là vọng tưởng Ngoại-đạo.

Các tánh chẳng thể hoại,

Tự trụ tánh tứ Đại.

Ngoại-đạo tưởng vô thường,

Là chìm nơi kiến chấp.

Pháp hoặc sanh hoặc diệt,

Tánh tứ Đại tự thường.

Tại sao bọn Ngoại-đạo, 

Lại sanh tưởng vô thường ?

Năng nhiếp và sở nhiếp,

Tất cả duy tâm tạo.

Theo hai tâm lưu chuyển,

Vô ngã và ngã sở.

Nói gốc cây Phạm Thiên (ngã),

Nhánh lá khắp thế gian (ngã sở).

Theo pháp Ta sở thuyết,

Chỉ do tâm họ tạo.

Khi ấy, Đại Huệ Bồ-tát lại bạch Phật rằng :

- Thế Tôn ! Cúi xin vì Đại Chúng thuyết tướng thứ lớp tương tục Diệt Tận Định của tất cả Bồ-tát, Thanh-văn, Duyên-giác. Nếu khéo biết tướng thứ lớp tương tục Diệt Tận Định, thì khiến con và các Bồ-tát chẳng vọng xả sự vui của Pháp-môn Diệt Tận Định, cuối cùng chẳng đọa sự ngu si của tất cả Ngoại-đạo, Thanh-văn và Duyên-giác.

Phật bảo Đại Huệ :

- Hãy chú ý nghe và khéo ghi nhớ, Ta sẽ vì ngươi mà thuyết.

Đại Huệ Bồ-tát bạch Phật rằng :

- Thế Tôn ! Cúi xin thọ giáo.

Phật bảo Đại Huệ :

- Từ Sơ Địa đến Lục Địa Bồ-tát đắc nhơn Vô Ngã, nhập Diệt Tận Định với Thanh-văn, Duyên-giác chẳng khác; vì nơi định có xuất có nhập, chưa thể niệm niệm nhập. Thất Địa Bồ-tát nhập Diệt Tận Định lìa tất cả tướng hữu vô. Dù có tánh Niết-bàn mà chẳng trụ, chẳng như Nhị-thừa có nhiếp thọ sự vui của Chánh-định, cho Chánh-định là thiện, duyên theo hữu vi nhập Diệt Tận Định, đọa cảnh giới năng nhiếp sở nhiếp và có hành có giác. Cho nên Thất Địa Bồ-tát niệm niệm nhập Diệt Tận Định mà chẳng nghĩ Diệt Tận Định là thiện, đắc tất cả pháp tướng chẳng sai biệt, chẳng phân biệt pháp hữu, pháp vô, pháp thiện, pháp bất thiện.

- Đại Huệ ! Bát Địa Bồ-tát xả lìa Tạng-thức chẳng những đối với tất cả pháp mỗi mỗi tướng diệt, cho đến tâm, ý, ý thức hư vọng phân biệt của Thanh-văn, Duyên-giác cũng diệt. Từ Sơ Địa cho đến Thất Địa Bồ-tát sở tu quán hạnh, thấy tất cả các pháp nơi Tam-giới chỉ do tâm, ý, ý thức sở hiện tâm lượng, lìa ngã và ngã sở v.v... cũng chuyển diệt luôn, chẳng thấy ngoài pháp có mỗi mỗi các tướng. Ngoại-đạo ở nơi tự tâm khởi vọng tưởng phân biệt, hư vọng tu tập, thấy ở ngoài pháp có tướng để đắc, thì đọa mỗi mỗi tướng ngoài tánh. Ấy là hai thức chấp trước của phàm phu Ngoại-đạo, dùng tự tâm nhiếp tự tâm, thấy có pháp năng nhiếp sở nhiếp bèn nói tất cả đoạn diệt, chẳng biết do tập khí hư ngụy từ vô thỉ sở huân mà đoạn diệt chủng tánh Phật.

- Đại Huệ ! Bát Địa Bồ-tát sở đắc Tam-muội với Thanh-văn, Duyên-giác dù hơi giống nhau, nhưng Bồ-tát có Chánh-giác gia trì, nên dù có sự vui của Tam-muội mà chẳng nhập Niết-bàn. Nếu chẳng có Chánh-giác gia trì thì như Nhị-thừa tự yên ổn, chẳng thể trọn vẹn bằng Đại Như-lai, mà tự chứng Niết-bàn, xả bỏ tất cả chúng sanh, chẳng vì chúng sanh thuyết pháp hữu vi để dần dần dẫn dắt chúng sanh vào tri kiến Như-lai thì Phật chủng ấy phải đoạn dứt. Chư Phật Thế Tôn vì muốn khiến Nhị-thừa nối tiếp Phật Chủng, nên hiển thị vô lượng công đức bất khả tư nghì của Như-lai, nhưng hàng Thanh-văn, Duyên-giác ham trụ sự vui của Tam-muội chẳng chịu hồi tâm tiến lên Đại-thừa, lại tự cho là đã chứng Niết-bàn.

- Đại Huệ ! Ta sở dĩ nhấn mạnh bộ phận Thất Địa là muốn hành giả khéo tu phương tiện, xa lìa các tướng tâm, ý, ý thức và kiến chấp ngã, ngã sở, nhiếp thọ nhơn vô ngã, pháp Vô Ngã và Biện tài tứ vô ngại, đắc sức quyết định nơi Tam-muội môn, từ những đạo phẩm tương tục từ trước đến đây lần lượt tiến lên Bát Địa cho đến Thập Địa. Vì e sợ các Bồ-tát chẳng khéo liễu tri tự tướng cộng tướng và sự thứ lớp tương tục của chư Địa mà đọa nơi ác kiến của Ngoại-đạo, nên kiến lập thứ lớp của chư Địa. Đại Huệ ! Ngoại trừ tự tâm hiện lượng, thật chẳng có pháp sanh pháp diệt, chư Địa thứ lớp tương tục và đoạn đứt mỗi mỗi hạnh mê hoặc rơi vào Tam-giới, chỉ vì phàm phu chẳng giác ngộ, nên Ta và chư Phật thuyết chư Địa thứ lớp tương tục và thuyết Pháp đoạn dứt mỗi mỗi hạnh mê hoặc nơi Tam-giới.

- Lại nữa, Đại Huệ ! Bồ-tát Đệ Bát Địa vì muốn diệt ham trụ sự vui nơi Tam-muội của Thanh-văn, Duyên-giác, biết họ chẳng khéo giác tự tâm hiện lượng của tự tướng cộng tướng, bị rượu tập khí say mê sở chướng, đọa kiến chấp nhiếp thọ nhơn pháp Vô Ngã, vọng tưởng cho là Niết-bàn, chẳng phải trí huệ tịch diệt của tự giác. Đại Huệ ! Bồ-tát thấy sự vui của Tam-muội môn tịch diệt, do bổn nguyện đại bi thành tựu thương xót chúng sanh, phân biệt liễu tri Thập Vô Tận Cú, chẳng trụ vọng tưởng Niết-bàn. Vì bậc họ biết vốn đã Niết-bàn, nên vọng tưởng chẳng sanh, lìa năng nhiếp sở nhiếp của vọng tưởng, Giác-liễu tự tâm hiện lượng nơi tất cả các pháp, vì vọng tưởng chẳng sanh nên chẳng đọa nơi tâm, ý, ý thức và tướng vọng tưởng chấp trước ngoài tánh của Tự-tánh. Đối với Phật-pháp chẳng có cái nhân bất sanh, là tùy theo trí huệ mà sanh, nên chứng đắc Như-lai Tự Giác Địa.

- Như người trong mộng dùng phương tiện qua sông, nhưng chưa qua đã thức, thức rồi suy nghĩ là chánh hay tà, hoặc phi chánh phi tà. Người ấy do tưởng nhớ mỗi mỗi tập khí của kiến văn giác tri từ vô thỉ, nên ở mỗi mỗi hình xứ đọa tướng hữu và vô, thành có giấc mơ hiển hiện nơi tâm, ý, ý thức nên suy nghĩ như thế.

- Đại Huệ ! Như thế, Đại Bồ-tát nơi Đệ Bát Địa thấy chỗ vọng tưởng sanh, từ Sơ Địa tiến đến Thất Địa, thấy tất cả pháp như huyễn, dùng phương tiện độ thoát cái tâm vọng tưởng năng nhiếp sở nhiếp xong, dùng phương tiện của Phật-pháp khiến người chưa chứng đắc được chứng đắc. Đại Huệ ! Đây là phương tiện chẳng đoạn đứt nơi Niết-bàn của Bồ-tát, lìa tâm, ý, ý thức, đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn. Đại Huệ ! Nơi Đệ-nhất-nghĩa chẳng có thứ lớp tương tục, nói "Vọng tưởng Vô Sở Hữu" là pháp tịch diệt.

Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết Kệ rằng :

Tam thế Chư Phật thuyết,

Tâm lượng Vô Sở Hữu.

Bậc Trụ Địa Bồ-tát,

Được đến địa vị Phật.

Tâm-lượng nơi Tạng-thức,

Thất Địa chưa diệt sạch.

Bát Địa mới diệt hết.

Hai Địa Thất và Bát,

Đều gọi là Trụ Địa.

Phật-địa gọi Tối-thắng,

Trí tự giác trong sạch.

Chỗ tự tại Tối-thắng,

Chiếu soi như lửa hồng,

Quang minh khắp nơi nơi,

Sáng lòa chẳng chói mắt.

Giáo hóa lúc hiện tại,

Hoặc giáo hóa lúc trước,

Đến đây diễn Nhất-thừa,

Đều vào Địa Như-lai.

Nhất-thừa lập chư Địa,

Thật thì chẳng thứ lớp.

Thập Địa như Sơ Địa,

Sơ Địa như Bát Địa,

Cửu Địa như Thất Địa,

Thất Địa như Bát Địa,

Nhị Địa như Tam Địa,

Tứ Địa như Ngũ Địa,

Tam Địa như Lục Địa,

Thông nhau chẳng thứ lớp.

Khi ấy, Đại Huệ Bồ-tát lại bạch Phật rằng :

- Thế Tôn ! Như-lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác là thường hay vô thường ?

Phật bảo Đại Huệ :

- Như-lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác phi thường phi phi thường, vì cả hai đều có lỗi. Nếu nói Thường thì có cái lỗi năng tác, tất cả Ngoại-đạo đều nói "Thường có kẻ tác", Thường do tác mà thành thì chẳng phải chơn thường. Như-lai đối với chơn thường còn chẳng thấy có tướng Thường để đắc, huống là do tạo tác mà thành Thường ư ? Nên nói có lỗi.

- Nếu nói Như-lai Vô-thường thì có cái lỗi sở tác Vô-thường. Ngoại-đạo cho ngũ Ấm là sở tác, nhưng tướng năng thấy và sở thấy của ngũ Ấm đều chẳng tự tánh, rốt cuộc phải đoạn diệt, mà Như-lai thì chẳng đoạn diệt. Đại Huệ ! Tất cả sở tác đều vô thường, như cái bình, y áo v.v... tất cả đều có cái lỗi vô thường. Thế thì tất cả công đức phương tiện dùng để độ chúng sanh của Nhất-thiết-trí sở tác đều thành vô nghĩa, vì có sở tác. Nếu có nghĩa thì tất cả sở tác của thế gian đều đồng như sở tác của Như-lai, vì chẳng có tánh sai biệt vậy. Cho nên Như-lai nói phi thường phi vô thường.

- Lại nữa, Đại Huệ ! Như-lai chẳng phải 'như hư không thường'. Nếu như hư không thường thì thành Ngoan Không Vô Tri, mà Tự-giác Thánh-trí thì đầy đủ linh giác. Vậy nói "Như Hư Không Thường" thì có cái lỗi vô nghĩa. Đại Huệ ! Ví như hư không phi thường phi vô thường, lìa thường, vô thường, nhất, dị, đồng, chẳng đồng, nên bất khả thuyết, cho nên Như-lai phi Thường.

- Lại nữa, Đại Huệ ! Nếu Như-lai là 'vô sanh thường' thì như sừng của thỏ, ngựa cũng là Vô Sanh Thường, vậy thì pháp phương tiện thành vô nghĩa, vì có cái lỗi "Vô Sanh Thường", nên Như-lai phi Thường.

- Lại nữa, Đại Huệ ! Còn có việc khác biết Như-lai là Thường. Tại sao ? Vì Trí sở đắc Thường nên Như-lai Thường.

- Đại Huệ ! Như-lai hoặc ra đời hoặc chẳng ra đời, pháp cố định thường trụ. Thanh-văn, Duyên-giác, chư Phật Như-lai thường trụ chẳng gián đoạn, cũng chẳng phải vô tri như hư không thường trụ, cũng chẳng phải phàm phu có thể hiểu biết. Đại Huệ ! Trí sở đắc của Như-lai là do Bát-nhã sở huân, chẳng như chỗ tâm, ý, ý thức của Ngoại-đạo kia do Ấm, Giới, Nhập sở huân. Đại Huệ ! Tất cả Tam-giới đều do vọng tưởng chẳng thật sở sanh, Như-lai thì chẳng từ vọng tưởng chẳng thật sanh. Đại Huệ ! Vì hai pháp đối đãi nên có thường và vô thường, chẳng phải 'pháp bất nhị', Pháp bất nhị là tịch tịnh, vì tất cả pháp chẳng có hai tướng sanh. Cho nên Như-lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác phi thường phi vô thường. Đại Huệ ! Nếu sanh ngôn thuyết phân biệt thì có cái lỗi thường và vô thường. Nếu cái giác phân biệt diệt thì xa lìa kiến chấp Thường, Vô-thường của phàm phu. Kiến chấp phàm phu hư vọng phân biệt mỗi mỗi pháp thường, pháp vô thường, phi thường phi vô thường, huân tập theo pháp sanh diệt, dẫu có trí huệ cũng chẳng thể tịch tịnh.

Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết Kệ rằng :

Nói đủ thứ vô nghĩa,

Sanh lỗi thường, vô thường.

Từ đó kiến lập Tông,

Có nhiều nghĩa hỗn tạp.

Nếu chẳng sanh phân biệt,

Lìa hẳn thường, vô thường.

Đẳng quán lượng tự tâm,

Ngôn thuyết bất khả đắc.

Khi ấy, Đại Huệ Bồ-tát lại bạch Phật rằng :

- Thế Tôn ! Cúi xin Thế Tôn vì chúng con thuyết sự sanh diệt của Ấm, Giới, Nhập, nếu những việc ấy chẳng có Tự-tánh (ngã) thì ai sanh ai diệt ? Phàm phu là y nơi sanh diệt, chẳng biết Niết-bàn, chẳng thể hết khổ.

Phật bảo Đại Huệ :

- Lành thay ! Hãy chú ý nghe, Ta sẽ vì ngươi mà thuyết.

Đại Huệ Bồ-tát bạch Phật rằng :

- Cúi xin thọ giáo.

Phật bảo Đại Huệ :

- Tạng của Như-lai là hiển bày cái nhân thiện và bất thiện, phổ biến tạo ra các loài chúng sanh, ví như nhà ảo thuật biến hiện các loài người huyễn hóa, lìa ngã và ngã sở. Ngoại-đạo chẳng biết do ba duyên Căn, Cảnh, Thức hòa hợp phương tiện sanh khởi, lại chấp trước có kẻ tạo tác, ấy là do ác kiến tập khí hư ngụy từ vô thỉ sở huân, gọi là Tạng-thức, do đó sanh vô minh trụ Địa, cùng với thức thứ bảy sanh pháp nhiễm tịnh, như biển nổi làn sóng, thường khởi chẳng dứt. Nếu lìa lỗi vô thường và lìa nơi Thần Ngã Chấp Thường Luận của Ngoại-đạo thì Tự-tánh vô nhiễm, bổn lai trong sạch.

- Còn các thức kia thì có sanh có diệt, nơi ý thức niệm niệm tạo cái nhân vọng tưởng chẳng thật, chấp lấy các cảnh giới đủ thứ hình xứ danh tướng, chẳng biết sắc tướng do 'tự tâm sở hiện', chẳng lìa khổ vui, chẳng đến giải thoát, bị danh tướng trói buộc, tham sanh rồi sanh tham. Nếu nhân duyên các căn nhiếp thọ diệt thì tương tục chẳng sanh, nếu lìa tự tâm vọng tưởng, chẳng thọ khổ vui, hoặc nhập Diệt Tận Định, hoặc nhập Cõi Tứ Thiền, hoặc khéo tu Chơn-đế giải thoát, chỉ chứng lý Thiên Không, người tu cho là giải thoát, ham trụ Niết-bàn, chẳng lìa chẳng chuyển, gọi là "Như-lai Tạng-thức Tạng" (là Tạng-thức trong Như-lai Tạng).

- Ngoại-đạo do thức thứ bảy chấp thức thứ tám làm Thần-ngã thì lưu chuyển chẳng diệt, do đó các thức phan duyên, chẳng phải cảnh giới tu hành của Thanh-văn, Duyên-giác, vì chẳng giác được Vô Ngã, có tự tướng cộng tướng nhiếp thọ, sanh Ấm Giới và Nhập. Nếu thấy tánh Như-lai Tạng thì năm pháp Tự-tánh và nhơn pháp vô Ngã đều diệt.

- Từng Địa thứ lớp tương tục tiến lên, chẳng bị kiến chấp Ngoại-đạo lay động, ấy gọi là trụ Bồ-tát Bất Động Địa, chứng đắc mười thứ đạo môn an vui của Tam-muội, mà tự nguyện chẳng thọ môn vui của Tam-muội, do huệ giác của Tam-muội sở trì, quán sát Phật-pháp bất khả tư nghì và thật tế hướng lên Tự-giác Thánh-trí, chẳng cùng lối tu hành của tất cả Thanh-văn, Duyên-giác và Ngoại-đạo, đắc mười thứ chủng tánh Hiền Thánh, lìa Tam-muội hạnh, vào nơi Như-lai ý sanh thân của Trí-thân. Cho nên, Đại Huệ ! Đại Bồ-tát muốn cầu Thắng-tiến, nên tẩy sạch danh tướng Như-lai-tạng và Thức-tạng.

- Đại Huệ ! Nếu chẳng có danh tướng Thức-tạng và Như-lai-tạng thì chẳng có sanh diệt, nhưng các bậc phàm phu Hiền Thánh đều có sanh diệt. Người tu hành Tự-giác Thánh-trí chẳng xả phương tiện mà hiện pháp lạc trụ. Đại Huệ ! Cái Như-lai-tạng và Thức-tạng này là do tâm tưởng của tất cả Thanh-văn, Duyên-giác sở thấy, dù Tự-tánh thanh tịnh, nhưng bị khách trần che lấp, vẫn thấy bất tịnh, chẳng phải sự thấy của Như-lai. Đại Huệ ! Cảnh giới hiện tiền của Như-lai, cũng như xem trái Yêm-ma-la trong bàn tay vậy.

- Đại Huệ ! Ta ở nơi nghĩa này dùng thần lực kiến lập, khiến Thắng-man phu nhân và chư Bồ-tát trí sáng đầy đủ v.v... diễn thuyết tuyên dương danh tướng Như-lai-tạng với Thức-tạng và sự cùng sanh của bảy thứ thức kia. Vì hàng Thanh-văn chấp trước, còn thấy có nhơn, pháp vô Ngã, nên Thắng-man phu nhân thừa Phật oai thần thuyết cảnh giới Như-lai chẳng phải cảnh giới của Nhị-thừa và Ngoại-đạo. Đối với Như-lai-tạng và Thức-tạng, chỉ có Phật và bậc Bồ-tát y nghĩa lợi trí có cảnh giới trí huệ này. Cho nên ngươi và các Đại Bồ-tát nơi Như-lai-tạng và Thức-tạng nên siêng tu học, chớ nên chỉ nghe biết được cho là đủ.

Khi ấy, Thế Tôn muốn lập lại nghĩa này mà thuyết Kệ rằng :

Như-lai-tạng thâm sâu,

Mà cùng với bảy Thức,

Sanh hai thứ nhiếp thọ,

Bậc Trí nên xa lìa.

Vô thỉ huân tập khí,

Như tượng hiện tâm gương.

Người quán sát như thật,

Hữu sự như vô sự.

Kẻ ngu quán Mặt-trăng,

Quán chỉ (ngón tay) chẳng quán Trăng.

Chấp trước theo văn tự.

Chẳng thấy Nghĩa-chơn-thật.

Tâm làm nghề ảo thuật,

Ý là người giúp nghề.

Ngũ Thức bạn diễn viên,

Vọng tưởng là khán giả.

Khi ấy, Đại Huệ Bồ-tát bạch Phật rằng :

- Thế Tôn ! Cúi xin vì Đại Chúng thuyết năm pháp Tự-tánh thức, hai thứ Vô Ngã và Cứu cánh phân biệt tướng, khiến con và các Đại Bồ-tát nơi tất cả Địa thứ lớp tương tục phân biệt pháp này, vào tất cả Phật-pháp. Nếu vào được tất cả Phật-pháp thì đến Tự Giác Địa của Như-lai.

Phật bảo Đại Huệ :

- Hãy lắng nghe và khéo ghi nhớ.

Đại Huệ Bồ-tát bạch Phật rằng :

- Cúi xin thọ giáo.

Phật bảo Đại Huệ :

- Nay Ta thuyết năm pháp Tự-tánh thức, hai thứ Vô Ngã và phân biệt Trí tướng. Năm pháp tự tánh là : Danh, Tướng, Vọng-tưởng, Chánh-trí, Như-như. Nếu người tu hành tu theo pháp này thì vào Tự-giác Thánh-trí của Như-lai, lìa những kiến chấp đoạn thường hữu vô v.v..., hiện tiền trụ nơi Chánh-định, hiện thọ pháp lạc. Đại Huệ ! Nếu chẳng biết năm thứ Tự-tánh thức, hai thứ Vô Ngã và ngoài tánh tự tâm hiện là phàm phu vọng tưởng, chẳng phải Thánh Hiền.

Đại Huệ Bồ-tát bạch Phật rằng :

- Thế Tôn ! Thế nào là sanh khởi vọng tưởng phàm phu, chẳng phải Thánh Hiền ?

Phật bảo Đại Huệ :

- Phàm phu chấp trước danh tướng thế tục, tùy tâm lưu chuyển. Lúc lưu chuyển thì hiện đủ thứ tướng mạo, đọa kiến chấp Ngã và Ngã-sở, chấp trước hy vọng diệu sắc rồi thành vô tri, bị vô tri chướng ngại nên sanh nhiễm trước. Đã nhiễm trước thì tham, sân, si sanh nghiệp tích tụ, đã tích tụ thì sanh vọng tưởng tự trói, như con tằm nhả tơ làm kén tự trói vậy. Chúng sanh đọa biển sanh tử, dạo nơi đồng hoang lục đạo, như bánh xe xoay chuyển chẳng ngừng. Vì họ ngu si, chẳng biết từ tự tâm vọng tưởng sanh khởi các tướng sanh, trụ, diệt, như huyễn hóa, như bụi trần lăng xăng, như mặt trăng trong nước, chẳng do tự tại, thời tiết, vi trần, sự thắng diệu mà sanh.

- Nói Danh là phàm phu ngu si tùy theo dòng nước danh tướng sanh khởi tất cả vọng tưởng chẳng thật, đặt ra đủ thứ tên gọi, ấy gọi là Danh.

- Nói Tướng là do nhãn thức chiếu soi gọi là sắc; nhĩ, tỹ, thiệt, thân, ý, ý thức phân biệt gọi là thanh, hương, vị, xúc, pháp. Ấy gọi là Tướng.

- Nói Vọng-tưởng là giả lập nhiều danh để hiển thị các tướng, do vọng tưởng suy nghĩ, vọng lập các tên gọi : Voi, ngựa, xe cộ, nam nữ v.v... gọi là Vọng-tưởng.

- Nói Chánh-trí là tìm danh tướng bất khả đắc, cũng như khách đi đường chẳng có sở trụ. Các thứ phân biệt chẳng sanh, chẳng đoạn chẳng thường, chẳng đọa nơi tất cả Ngoại-đạo, Thanh-văn và Duyên-giác, ấy gọi là Chánh-trí.

- Lại nữa, Đại Huệ ! Nói Như-như là Đại Bồ-tát dùng Chánh-trí này chẳng lập danh tướng, cũng chẳng phải không lập danh tướng, lìa bỏ kiến lập với phủ định và nhị kiến đối đãi thì Danh và Tướng chẳng sanh, gọi là Như-như.

- Đại Huệ ! Đại Bồ-tát trụ nơi Như-như rồi, đắc cảnh giới Vô Sở Hữu, chứng đắc Bồ-tát Hoan Hỷ Địa. Đắc Bồ-tát Hoan Hỷ Địa rồi, lìa hẳn ác kiến của tất cả Ngoại-đạo, chánh thức trụ bậc xuất thế gian, pháp tướng thành thục, phân biệt tướng huyễn của tất cả pháp. Tự giác pháp tướng lìa các vọng tưởng, thấy tánh của các tướng khác biệt, thứ lớp tiến lên Pháp Vân Địa. Giữa lúc đó sức Tam-muội thần thông được mở mang khắp nơi, chứng đắc Như-lai Địa. Đắc Như-lai Địa rồi, viên chiếu hiển thị đủ thứ biến hóa để thành tựu cho chúng sanh mà chẳng trụ nơi chúng sanh, như bóng trăng trong nước, nên cứu cánh đầy đủ Thập Vô Tận Cú, vì mỗi mỗi chúng sanh phân biệt thuyết Pháp. Pháp-thân lìa ý sở tác này, gọi là "Bồ-tát Nhập Như Như Sở Đắc".

Khi ấy, Đại Huệ Bồ-tát lại bạch Phật rằng :

- Thế Tôn ! Thế nào là ba thứ Tự-tánh gom vào năm pháp ư ? Hay là mỗi mỗi có tự tướng ư ?

Phật bảo Đại Huệ :

- Ba thứ Tự-tánh, tám thức và hai thứ vô ngã thảy đều gom vào năm pháp. Đại Huệ ! Nói Danh và Tướng là vọng tưởng Tự-tánh. Đại Huệ ! Nếu dựa theo vọng tưởng sanh Tâm, Tâm-pháp, gọi là đồng thời sanh, như ánh sáng mặt trời đồng thời chiếu soi mỗi mỗi tướng sai biệt. Do thức thứ sáu phân biệt, thức thứ bảy chấp trì duyên khởi lẫn nhau, gọi là Duyên Khởi Tự-tánh. Đại Huệ ! Nói Chánh-trí, Như-như là tánh chẳng thể hoại, gọi là Thành-tự-tánh.

- Lại nữa, Đại Huệ ! Vọng tưởng tự tâm hiện tám thứ Thức khác nhau, ấy là : Tạng-thức (thức thứ tám), Ý (thức thứ bảy), Ý-thức (thức thứ sáu) và Tiền Ngũ Thức (nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt, thân), nếu diệt hẳn tướng ngã, ngã sở, năng nhiếp sở nhiếp và tất cả vọng tưởng chẳng thật thì hai thứ Vô Ngã sanh khởi. Cho nên, Đại Huệ ! Nói năm pháp này là Thanh-văn, Duyên-giác, Bồ-tát, Như-lai, Tự-giác Thánh-trí, chư Địa thứ lớp tương tục, tất cả Phật-pháp thảy đều bao gồm trong đó.

- Lại nữa, Đại Huệ ! Nay ta tóm tắt lại năm pháp Tướng, Danh, Vọng-tưởng, Chánh-trí và Như-như. Nghĩa Tướng là xứ sở, hình tướng, sắc tượng v.v... hiện ra tướng khác biệt, gọi là Tướng. Nghĩa Danh là theo tướng đặt tên, như bình tên là bình, y áo tên là y áo... chẳng phải cái khác, gọi là Danh. Nghĩa Vọng-tưởng là giả lập nhiều tên để hiển thị các tướng, như phân biệt bình, y áo v.v... hiện trongTâm, Tâm-pháp, gọi là Vọng-tưởng, Nghĩa Như-như là danh này tướng kia chẳng có tri giác, nơi các pháp cũng chẳng thể lần lượt sanh nhau, lìa vọng tưởng chẳng thật, cuối cùng bất khả đắc, ấy gọi là Như-như. Nghĩa Chánh-trí là sự quyết định chơn thật, cứu cánh Tự-tánh bất khả đắc, chỉ là Như-như, Ta và chư Phật tùy thuận chỗ nhập của chúng sanh phổ biến thuyết Pháp, giả lập phương tiện, hiển bày nghĩa như thật cho họ, khiến họ theo đó đi vào Chánh-giác, biết pháp phi đoạn phi thường, vọng tưởng chẳng khởi, tùy thuận Tự-giác Thánh-trí. Pháp-tướng này tất cả Ngoại-đạo và Thanh-văn, Duyên-giác chẳng thể đắc, ấy gọi là Chánh-trí. Đại Huệ ! Gọi chung là năm Pháp. Thật ra, ba thứ Tự-tánh, tám Thức và hai thứ Vô Ngã, tất cả Phật-pháp thảy đều gom vào trong năm Pháp này. Cho nên Đại Huệ ! Nên theo phương tiện tu học, cũng dạy người khác theo đúng Chánh-pháp này, chớ theo pháp khác.

Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết Kệ rằng :

Năm Pháp ba tự tánh

Cùng với tám thứ Thức

Và hai thứ Vô-ngã

Thảy nhiếp trong Đại-thừa

Tướng, Danh và Vọng-tưởng

Thuộc về pháp thế gian

Như-như cùng Chánh-trí

Thuộc pháp xuất thế gian

Hai tánh chẳng thể hoại

Nên gọi Thành Tự-tánh.


>> Quyển 4 phần 3

Tác giả bài viết: Liễu Phàm

Nguồn tin: Tông Phong Tàng Thư

Theo dòng sự kiện

Xem tiếp...

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn