03:52 ICT Thứ hai, 02/12/2024

Giới Thiệu

Phật Thích-ca

Thích-ca Mâu-ni là Phật thứ tư trong Hiền kiếp, họ Sát-lỵ, cha là vua Tịnh-phạn, mẹ hoàng hậu Ma-da. Dòng Sát-lỵ làm Vua từ khi châu Diêm-phù-đề bắt đầu. Phật trải qua nhiều kiếp tu hành được Phật Nhiên Đăng thọ ký kế vị Phật Ca-diếp, thành Phật trong kiếp này. Phật xưa kia đắc đạo Bồ-tát, sanh...

Danh mục chính

Liên Kết Trang

TS NGUYET KHE
TS DUC SON
HUE NANG

Trang nhất » Tông Phong Tàng Thư » Luận, Giảng

Triệu Luận - phần I

Thứ bảy - 30/03/2013 04:33 Xem: 3053
Tông bản nghĩa - Vật bất thiên
TÔNG BẢN NGHĨA

GIẢI ĐỀ :

Hai chữ Tông Bản là để tỏ rõ cái Tông-chỉ lập luận có căn bản. Vì bốn Luận chẳng phải soạn cùng một lúc, các Luận đã soạn xong mới soạn bài Tông Bản Nghĩa nầy để thuyết minh bốn Luận ấy đều có hệ thống đối với căn bản. Bởi vì sở lập Tông-chỉ đều căn cứ vào Tâm để truy cứu nguồn gốc mê ngộ, phàm Thánh và vạn pháp. Có pháp thì phải có nghĩa, nên gọi là Tông Bản Nghĩa.

CHÁNH VĂN :

Bổn-vô, Thật-tướng, Pháp-tánh, Tánh-không, Duyên-hội, năm danh từ trên vốn chỉ có một nghĩa để vạch ra Tông-chỉ Chánh-pháp là căn bản của bổn Luận :

Hai chữ bổn-vô chỉ ngay Tâm tịch diệt vốn không một pháp, lìa tất cả tướng, dứt bặt Thánh-phàm, nên gọi là bổn-vô, chẳng phải có ý làm thành  (1).

Vì tất cả pháp đều do vọng tâm tùy duyên biến hiện mà có, Tâm vốn vô sanh, chỉ do nhân duyên hội hợp mà sanh nên gọi là Duyên-hội. Vì duyên sanh ra các pháp, vốn không có thật thể, do nhân duyên sanh ra nên nói không, nên gọi là Tánh-không, vì pháp thể là Chơn-như biến hiện nên gọi là Pháp-tánh. Do Chơn-như pháp tánh mà thành các pháp, Chơn-như không có tướng, nên bản thể các pháp tịch diệt, nên gọi là Thật-tướng.

Vì Bổn-vô là thể của Tâm, Duyên-hội là dụng của Tâm, Thật-tướng, Pháp-tánh, Tánh-không, đều là cái nghĩa do Tâm tạo thành vạn pháp nên nói là một nghĩa vậy. Y theo Tâm-pháp lập bốn Luận nầy, lấy bài Vật Bất Thiên làm Tục-đế, bài Bất Chân Không làm Chân-đế, nhị Đế là cảnh sở quán, Bát-nhã là tâm năng quán, ba bài Luận trước là nhân, Niết-bàn là quả, nên trước tiên lấy bài Tông Bản Nghĩa làm Tông-thể (Tông-chỉ của Bản-thể) chung cho cả bộ Luận.

Tại sao vậy ? Tất cả các pháp đều do nhân duyên hội hợp mà sanh, duyên hội mà sanh thì khi chưa sanh không có, duyên lìa thì diệt, nếu mà thật có, có thì chẳng diệt. Theo đó mà suy ra thì biết, dù nay hiện ra có, cái có ấy tánh thường tự không, vì tánh thường tự không, nên gọi là Tánh-không, bởi vì Tánh-không nên gọi là Pháp-tánh, Pháp-tánh chân thực như thế nên gọi là Thật-tướng, Thật-tướng vốn không có tự thể, chẳng phải do suy lường mà cho đó là không, nên gọi là Bổn-vô.

Nói đến "chẳng có chẳng không" là nói cái  chẳng giống như cái có của người thường-kiến chấp "thật có"; còn nói đến cái không cũng chẳng phải như người đoạn-kiến chấp "thật không". Nếu người lấy cái có làm có thì lấy cái không làm không, nên chẳng lấy "Có, không" để quán các pháp mới có thể gọi là biết được thật tướng của các pháp vậy.

Dù quán "Có" mà chẳng chấp lấy tướng Có, dù quán "Không" mà chẳng chấp lấy tướng Không, vậy thì các Pháp-tướng là cái tướng của vô tướng, nên Tâm của bậc Thánh trụ nơi vô-sở-trụ vậy.

Tam-thừa đều cùng quán Tánh-không mà đắc Đạo, Tánh-không là thật tướng của các pháp nên gọi là Chánh-quán, nếu thấy có khác biệt tức là tà-quán. Giả sử Nhị-thừa chẳng thấy lý nầy thì điên đảo giống như phàm phu rồi.

Cho nên Tam-thừa quán pháp chẳng có khác nhau, chỉ do tâm chấp có lớn nhỏ mà hình thành sai biệt. Phương-tiện phải đi đôi với Bát-nhã thì mới được gọi là Đại-huệ, thật tướng của các pháp gọi là Bát-nhã. Đã quán được thật tướng mà không thủ chứng là nhờ công dụng của phương-tiện; tùy theo căn cơ thích ứng của chúng sanh mà độ gọi là phương-tiện. Dù ra vào trong sanh tử mà chẳng nhiễm trần lao là nhờ sức trí huệ của Bát-nhã; vậy thì cái cửa của Bát-nhã là quán "Không", cái cửa của phương-tiện là vào "Hữu". Vào "Hữu" mà chưa từng mê chấp nên thường ở nơi "Hữu" mà chẳng nhiễm, chẳng chán "Hữu" mà quán "Không" nên quán "Không" mà không thủ chứng, ấy gọi là sức lực của một niệm, tức là Quyền-trí và Thật-trí đều đủ vậy.

Người dụng công tham-cứu thì trong một niệm, Quyền-trí và Thật-trí đều đủ cả, do đó, tâm cảnh được hiện rõ ràng.

Nói "Niết-bàn Tận-đế" tức là cái trói buộc của phiền não đã hết, thì sanh tử vĩnh viễn tiêu diệt, nên gọi là 'tận' thôi, chớ chẳng phải còn có chỗ nào để tận vậy.

GHI CHÚ : (1) Có nghĩa là chẳng phải từ hữu mà biến thành vô, vì Bổn-vô này vượt ngoài cái có và không tương đối.

 

VẬT BẤT THIÊN

GIẢI ĐỀ :

Luận nầy nói Tục-đế tức Chân là cảnh sở quán. Chữ Vật là chỉ vạn pháp, hai chữ Bất-thiên là chẳng biến đổi, cũng có nghĩa chỉ ngay thể tánh thật-tướng của các pháp.

Phàm phu vọng thấy các pháp hình như có lưu động và biến đổi; nếu lấy Bát-nhã mà quán thì liền thấy ngay thật tướng của các pháp ngay đó thể tánh tịch diệt chơn thường, chẳng có chút tướng lưu động hay biến đổi, nên nói chẳng có một pháp được động chuyển là vậy. Vì duyên sanh nên tánh Không, nên mỗi pháp ngay đó vốn không biến đổi, chẳng phải tướng biến đổi mà tánh chẳng biến đổi (nghĩa là tánh với tướng chẳng khác).

Thấy được mỗi pháp không biến đổi, nên tức Vật tức Chân, Chân thì chẳng có một pháp nào dính dáng đến tình cảm, theo đó mà quán tục thì Tục tức Chân vậy. Vì do toàn lý thành sự, Sự-sự đều chân thì Thật-tướng của các pháp ngay đó đều được hiển hiện rồi.

LƯỢC GIẢI

Tác-giả căn cứ vào kinh Duy-Ma-Cật và Pháp Hoa ngộ nhập Thật-tướng, nên lấy bài Vật Bất Thiên làm Tục-đế, tức Tục mà Chân thì ý chỉ của Bất-thiên rõ ràng trước mắt.

CHÁNH VĂN

Sự sanh tử luân hồi, mùa đông mùa hè thay phiên biến đổi, hình như có vật lưu động, ấy là sự hiểu biết của người thường, nhưng tôi thì nói chẳng phải vậy. Tại sao ? Kinh Phóng Quang Bát-nhã có nói : "Các pháp chẳng có khứ lai, chẳng có pháp nào động chuyển cả".

Cứu xét ý chỉ của bất động, đâu phải ngưng cái động để cầu tịnh ? Cần phải cầu tịnh nơi động, cầu tịnh ở nơi động thì dẫu cho động cách mấy cũng là thường tịnh; chẳng ngưng động để cầu tịnh thì dẫu cho tịnh cách mấy cũng chẳng lìa động. Vậy thì động và tịnh chưa từng có khác biệt mà người mê hoặc cho là bất đồng, thành ra Chân-ngôn của bậc Thánh bị kẹt không được hiển bày bởi những người ham tranh biện, làm cho đạo Nhất-thừa Chân-tông bị chôn vùi bởi những người ham chấp dị kiến, cho nên sự động tịnh đến chỗ cùng cực không dễ gì nói cho người tin được vậy.

Tại sao ? Vì nếu nói Chân-ngôn của bậc Thánh thì nghịch với thế tục, thuận theo thế tục thì phản bội Chân-ngôn. Phản bội Chân-ngôn nên mê lầm không trở về Tự-tánh được; nghịch với thế tục nên lời nói lạt lẽo, chẳng có mùi vị. Nếu là người Thượng-căn lợi trí, nghe xong tin liền; bậc trung-căn thì chưa phân biệt được chỗ có hay không; bậc hạ-căn thì vỗ tay cười to mà bỏ đi.

Sự động tịnh đến chỗ cùng cực ở cạnh nơi người mà người chẳng biết được, như thế có phải là tánh của vạn vật ư ? Lòng tôi luôn luôn ray rứt, xót thương kẻ mê lầm nên mới chỉ bày cái Tâm ở trong động và tịnh hầu hiển bày lý bất nhị của động tịnh, làm cho người mê chợt tỉnh, ra khỏi sự ràng buộc của động tịnh, nhưng chẳng dám quyết đoán là thật đúng, nay chỉ thử luận bàn mà thôi.

Kinh Đạo Hạnh Bát-nhã nói : "Các pháp vốn không có nơi xuất phát, cũng không có chỗ để đến".

Trung Quán Luận nói : "Nhìn phương hướng của người đi thì biết hướng của họ đi, nhưng người ấy không đến hướng ấy được". (Vì chẳng có phương hướng thật để đến). Đó đều là ngay trong động mà hiển bày tịnh, nên chứng tỏ rõ ràng là Vật Bất Thiên vậy. Người thường cho là động vì vật xưa không đến nay, nên nói là động mà chẳng phải tịnh (mặt trẻ lúc xưa, nay biến thành già, có biến đổi thì là động rồi, chẳng phải tịnh). Còn tôi cho là tịnh, cũng là vật xưa không đến nay, nên nói tịnh mà chẳng động (theo tôi xem thì mặt trẻ trụ lúc xưa, chưa từng dời đến nay, nên nói tịnh mà chẳng động). Người chấp động mà chẳng tịnh vì nó chẳng đến (vì mặt trẻ chẳng đến, từ mặt trẻ biến thành già nên cho là động).

Sự thật, tịnh mà chẳng động vì nó không đi (vì mặt trẻ ở lúc xưa không đến nay cũng như mặt già hiện nay không đến xưa, nên gọi là tịnh). Vậy thì hiện tượng chưa từng khác, nhưng sự thấy bất đồng (cùng lấy "Vật xưa không đến nay" mà thấy có sự động tịnh chẳng đồng).

Người mê lấy tình nghịch lý nên bị bế tắc, người ngộ thì từ Lý đạt Sự nên được thông suốt. Nếu ngộ Đạo chân thường thì đâu còn tướng nào có thể chướng ngại được ?

Tình-thức của con người bị mê hoặc đã lâu, nên đối với cảnh chân thật trước mắt mà chẳng biết, thật đáng thương xót ! Đã biết vật xưa chẳng đến nay mà lại nói vật nay có đi; vật xưa đã chẳng đến mà vật nay làm sao đi được ? Tại sao vậy ? Tìm vật xưa ở nơi xưa, xưa chưa từng không; tìm vật xưa ở nơi nay, nay chưa từng có. Nay chưa từng có thì rõ ràng là vật không đến; xưa chưa từng không, nên biết vật chẳng đi.

Tôi nói vật xưa trụ nơi xưa, chẳng từ nay đến xưa; vật nay trụ nơi nay, chẳng từ xưa mà đến nay. Nên Khổng-tử nói với Nhan Hồi rằng : "Tôi với Hồi vừa bắt tay nhau thì sự bắt tay đã mất rồi, như thế thì rõ ràng là vật không qua lại với nhau" (Tác-giả mượn lời của Khổng-tử để chỉ bày sự biến đổi mau lẹ đến cùng cực, mới thấy rõ ràng chỗ tỏ bày chân thật của Vật Bất Thiên).

Kinh Lăng Già nói : "Tất cả pháp chẳng sanh, đó là nghĩa sát-na, mới sanh liền có diệt, chẳng vì kẻ ngu thuyết". Ngài Hiền Thủ giải rằng : "Vì sát-na lưu chuyển nên không có Tự-tánh, nếu vật có Tự-tánh thì vĩnh viễn cố định, không có sanh diệt biến đổi; vì không có Tự-tánh nên không sanh. Nếu không sanh thì không lưu chuyển, vì thế người khế ngộ pháp-vô-sanh mới thấy được nghĩa sát-na".

Kinh Duy-Ma-Cật nói : "Bất sanh bất diệt là nghĩa vô thường" (Tác-giả đã ngộ Thật-tướng, mới được ngay trong pháp sanh diệt biến đổi mà trực thấy sự chân thật của nghĩa bất-thiên, cho nên mượn lời văn biến đổi lưu động mà sáng tỏ ý chỉ của bất-thiên, nếu không phải người thông đạt ý nghĩa vô-sanh thì rất khó mà tả được).

Đã không có một chút triệu chứng qua lại thì làm sao có vật gì để lưu động biến đổi ? Kỳ thật, về không-gian thì vật không tới lui, về thời-gian thì không có xưa nay. Cũng như trong chiêm bao thấy trải qua nhiều năm, nhưng tỉnh giấc thì biết chỉ có chốc lát thôi. Nếu lấy việc chiêm bao để quán các pháp thì "thời vô cổ kim, pháp vô khứ lai" đã rõ ràng trước mắt. Nếu tác ý phân biệt thì liền lọt vào lưu chuyển, chỗ này chẳng phải phàm tình có thể đến được.

Gió bão bay núi mà thường tịnh

Nước sông đổ gấp mà chẳng trôi

Bụi trần lăng xăng mà chẳng động

Trăng qua bầu Trời mà chẳng đi.

Bốn câu Kệ nầy đâu còn kỳ lạ gì nữa.

LƯỢC GIẢI

Tôi (Ngài Hám Sơn) lúc trẻ đọc Luận nầy đến bốn câu trên, đối với nghĩa "Bất Thiên" khởi nghi-tình trải qua nhiều năm.

Khi cùng Sư Diệu kiết-đông ở Phù Bản, khắc lại bản Luận này; lúc dò đến đoạn nầy, hoát nhiên tỉnh ngộ. Lòng mừng vô hạn, liền đứng lên lễ Phật thì thấy thân mình không có tướng lễ xuống hay đứng lên, mở cửa nhìn ra ngoài chợt thấy gió thổi, lá cây rơi lả tả mà lá nào cũng chẳng động, mới tin câu gió bão bay núi mà thường tịnh. Kế đó vào nhà cầu để đi tiểu mà chẳng thấy tướng lưu chuyển của nước tiểu, thật là nước sông đổ gấp mà chẳng trôi.

Ngày xưa về sự nghi câu : "Thế gian tướng thường trụ" của kinh Pháp Hoa liền nhờ đây mà tan rã. Do đó mới biết ý chỉ của Luận này thật vi tế sâu xa, nếu chẳng phải Chân-tham thật ngộ, muốn lấy cái tri kiến mà tỏ bày, đều chẳng khỏi bị hoài nghi nhiều thêm nữa.

Về sự động tịnh đến cùng cực không dễ gì nói cho người tin được, những lời ấy là muốn người lìa ngôn ngữ để hiểu ý, đừng chấp theo ngôn ngữ mà đánh mất Ý-chỉ vậy.

CHÁNH VĂN

Bậc Thánh có nói "Mạng người chóng mất, mau hơn nước chảy", cho nên thừa Thanh-văn ngộ "Phi Thường" mà thành Đạo, Duyên-giác ngộ "Duyên lìa" là "tức Chân".

Nếu vạn pháp chẳng phải "Vô-thường" thì bậc Thánh nhị Thừa tại sao do nghe Vô-thường mà chứng quả Thánh ? Tìm lại lời nói của bậc Thánh thật là vi ẩn khó hiểu. Lời nói của bậc Thánh dầu nói vô-thường mà ý muốn hiển bày Chơn-thường, cho nên vi ẩn khó hiểu. Hình như động mà tịnh, như đi mà ở, chỉ có thể dùng Thật-trí mà hiểu biết, chớ không thể theo sự tướng mà tìm cầu. Cho nên nói đi chẳng cần cho là đi, chỉ để phá cái tư tưởng chấp "thường" của người phàm, nói ở khỏi cần cho là ở, chỉ để phá cái chấp thật có đi của người mà thôi. Đâu phải nói đi mà có thể rời chỗ, nói ở mà có thể ở lại được. Nên kinh Thành Cụ Quang Minh nói : "Bồ-tát ở trong chỗ chấp "thường" mà giảng giáo pháp "phi thường". Đại-thừa Luận nói : "Các pháp không động, chẳng có chỗ qua lại". Đó đều là để dẫn dắt cho mười phương chúng sanh được thông đạt ý, hai lời trên chỉ là một thôi, đâu phải do lời văn khác biệt mà có trái nghịch nhau.

LƯỢC GIẢI

Đoạn nầy giải thích lời của bậc Thánh dù khác nhau mà ý chỉ là một, cũng như hai pháp Sanh-tử và Niết-bàn, nghĩa đều là không cả. Kinh Thành Cụ nói : "Bồ-tát ở trong chỗ phàm phu chấp thường mà nói vô thường để phá chấp ấy, chẳng phải thật có tướng Sanh-tử; ý là muốn người ngay trong vô thường mà ngộ "Chân-thường". Như Đại-thừa Luận nói : "Các pháp trạm-nhiên thường trụ chẳng động, vốn không khứ lai". Ý muốn cho người ngay khi náo động mà ngộ bất-thiên, lời nói Thường và Vô-thường đều là tùy cơ để giáo hóa chúng sanh, lời tuy khác mà ý là một, đâu phải vì văn khác mà đối chọi nhau, vậy thì người chấp theo ngôn ngữ để tranh biện, chẳng phải là mê hoặc ư ?

CHÁNH VĂN

Cho nên nói thường mà chẳng trụ, nói đi mà bất-thiên. Chứng vô-vi mà không bỏ vạn hạnh, nên thường mà chẳng trụ; ở nơi Sanh-tử mà chẳng lìa Niết-bàn, nên đi mà bất thiên. Vì bất-thiên nên dù thấy có tướng đi mà thường tịnh, vì chẳng trụ nên dù thấy tướng tịnh mà thường đi. Tịnh mà thường đi nên đi mà bất thiên, đi mà thường tịnh nên tịnh mà chẳng trụ vậy. Sự "giấu núi" của Trang-tử (1) và sự "đến bờ sông" của Khổng-tử (2) là vậy, đó đều là cảm thấy sự đi khó trụ, đâu phải nói thấy đi mà có đi. Cho nên, người quán được Tâm của bậc Thánh thì chẳng đồng với sự thấy của người thường. Tại sao ? Người thường cho là già & trẻ cùng một cơ thể, đến trăm tuổi cũng chỉ là một bản chất, ngày tháng trôi qua, hình thể theo từng thời gian biến đổi mà chẳng biết. Cho nên ông Phạn-chí lúc tuổi trẻ xuất gia, đầu bạc trở về, người hàng xóm thấy hỏi : "Người xưa kia còn sống sao ?". Phạn-chí đáp : "Tôi giống người xưa mà chẳng phải người xưa ấy". Người hàng xóm ngạc nhiên cho lời ông ấy nói sai. Cũng như lời văn trên nói "Giấu núi ở nơi vũng nước, người có sức mạnh vác đi mà kẻ mê chẳng biết". Đó là chỉ việc giống như người hàng xóm của Phạn-chí.

GHI CHÚ : (1) Trang-tử nói : "Giấu núi (tàng sơn) nơi vũng nước cho đó là vững chắc, nhưng người có sức mạnh có thể vác đi được mà kẻ mê chẳng biết, nếu giấu Thiên-hạ nơi Thiên-hạ thì không còn chỗ nào mà dời đi được". Ý nói người chưa quên hình thể để hợp với Đạo thì dù cho ẩn giấu nơi núi rừng mà hình thể bị tạo hóa âm thầm biến đổi mà kẻ mê chẳng biết, vì có giấu thì có mất. Nếu hình thể với Đạo đã hợp làm một rồi thì không có chỗ giấu, không giấu thì không mất, cũng như giấu Thiên-hạ nơi Thiên-hạ thì chẳng thể mất được vậy. Đó là ý của Trang-tử.

(2) Trong Luận-ngữ : Khổng-tử ở trên bờ sông nói "Nước chảy qua mau như thế chẳng lìa ngày đêm", là lời tán thán Đạo-thể như nước sông chảy chẳng ngừng. Đó là ý của Khổng-tử. Tác-giả lấy lời văn trên dẫn chứng sự bất-thiên, ý nói kẻ mê chẳng biết, dù "thiên" mà "bất-thiên", nói chẳng lìa ngày đêm thì dẫu cho đi mà chẳng đi. Nên Luận nầy giải thích rằng hai lời nói trên chỉ cảm thấy đi mà khó trụ, chẳng phải nói đi mà thật có đi, cho nên nói dù thấy "thiên" mà ý thật "bất-thiên", và cảnh cáo rằng : Người quán được Tâm của bậc Thánh, chẳng nên theo thường tình chấp ngôn hại nghĩa thì mới phải.

LƯỢC GIẢI

Tác-giả lấy việc của Phạn-chí để giải thích dù "thiên" mà "bất-thiên" để sáng tỏ cái nghĩa kẻ mê chẳng biết. Người hàng xóm của Phạn-chí nói "Người xưa còn sống đây" là lấy cái mặt trẻ khi xưa cho là người mặt già hiện nay. Phạn-chí đáp : "Tôi giống người xưa mà chẳng phải người xưa", ý là nói mặt trẻ tự trụ khi xưa mà chẳng đến nay, đâu có thể lấy mặt già hiện nay mà đi đến khi xưa được ư ? Đây là nghĩa của bất-thiên rõ ràng, nhưng người hàng xóm chẳng biết, nên ngạc nhiên cho là nói sai, ý muốn chỉ rõ ra : Kẻ mê chẳng biết vậy.

CHÁNH VĂN

Như-lai vì tình chấp của chúng sanh nên dùng lời phương-tiện để đánh thức người mê hoặc, dùng Chân-tâm của bất-nhị để tỏ ra nhiều lời giáo hóa khác biệt chẳng phải một. Dù lời nói trái nhau mà chẳng có thể cho là khác biệt, chỉ có bậc Thánh mới nói được những lời như thế. Tóm lại, lời bậc Thánh có khác mà Tâm chẳng khác. Chư Phật ra đời vốn chẳng có Pháp để thuyết, nhân vì tình-chấp của chúng sanh nên tùy theo căn cơ của chúng sanh mà thiết lập lời nói phương-tiện để phá cái chấp ấy. Lời giáo hóa của Phật mặc dù trái nhau mà Tâm thật chẳng có khác, đoạn trên nói vi ẩn khó hiểu là vậy.

Lại nói về Chân thì có tên gọi là Bất-thiên, còn dẫn dắt về tục thì có thuyết gọi là "Lưu Động", như vậy, dù có nói ra muôn ngàn đường lối khác nhau cũng chỉ để qui về đồng với một mà thôi.

LƯỢC GIẢI

Đoạn này giải thích cái nghĩa trái nhau mà chẳng khác. Nói về phần Chân thì gọi là Bất-thiên, mà ý ở nơi giáo hóa thế tục; nói về phần tục thì có thuyết lưu động mà ý ở nơi trở về Chân-tâm, cho nên muôn ngàn đường lối khác nhau mà chẳng có thể cho là khác biệt vậy.

CHÁNH VĂN

Người chấp văn tự thì khi nghe nói bất thiên cho rằng việc xưa không đến nay, nghe lưu động thì cho rằng việc nay có đến xưa. Đã nói cổ, kim thì cổ tự trụ nơi cổ, kim tự trụ nơi kim; mà tại sao còn muốn dời kim đến cổ vậy ?

Cho nên, nói trụ chẳng cần trụ, cổ kim thường tồn vì nó bất động; nói đi chẳng cần đi, vì cổ chẳng đến kim thì kim cũng chẳng đến cổ, không đến cho nên chẳng qua lại nơi cổ kim, bất động cho nên các tánh (tướng trẻ và tướng già) trụ nơi một thời. Vậy thì lời văn khác biệt của các Kinh, học thuyết sai biệt của Bách Gia, nếu đã hội ngộ thì làm sao còn bị những lời văn sai biệt mê hoặc được ?

Cho nên người ta cho là ở thì tôi nói là đi, người ta nói là đi thì tôi cho là ở; dù cho đi & ở khác nhau nhưng ý nghĩa chỉ là một mà thôi. Do đó, Lão-tử nói : "Lời chánh nói ra giống như lời phản, ai mà tin cho nổi, song lời ấy cũng có lý do vậy".

LƯỢC GIẢI

Đoạn này hiển bày mê & ngộ cùng một nguồn gốc. Người cho là "Ở" vì do vọng tâm chấp thường; chấp thường thì lọt vào vô thường, nên tôi nói "Đi" để phá cái chấp ấy, ý ở nơi vô-trụ, chẳng phải nói thật có đi; người cho có "Đi" là chấp sanh tử vô thường thì tôi nói "Ở" để phá cái chấp ấy; ý ở nơi vốn không có sanh-tử để chấp, chẳng phải nói "Ở" mà thật có ở lại. Vậy thì hai lời "Đi" và "Ở" chỉ là lời phá chấp, để hiển bày Đạo nhất Chân thường trụ thôi, nên lời khác mà ý một. Cũng như Lão-tử nói : "Lời Chánh nói ra giống như lời phản, ai mà tin nổi, song lời ấy cũng có lý do vậy". Lời ấy chỉ rõ mê-ngộ không ngoài nhất Chân; thị-phi vốn chẳng phải hai, nếu Chánh-kiến hiện tiền thì chẳng tùy theo bề mặt của lời nói để hiểu nghĩa vậy.

Tại sao ? Người tìm cổ nơi kim, nói nó chẳng ở, tôi thì tìm kim nơi cổ, biết nó chẳng đi. Kim nếu đến cổ, cổ phải có kim, cổ nếu đến kim, kim phải có cổ. Kim mà không cổ thì biết chẳng đến, cổ mà không kim thì biết chẳng đi. Nếu cổ không đến kim, kim cũng không đến cổ, cổ kim chẳng đến với nhau thì các tánh trụ nơi một thời, vậy đâu còn vật gì để cho qua lại nữa ?

Do đó, người ngộ lý-bất-thiên nơi vi ẩn, dù cho bốn thời biến đổi mau lẹ như gió bay điện chớp, cũng là bất động như như.

Cho nên Công-đức của Như-lai trải qua muôn đời mà hạnh lợi tha thường tồn, Đạo-pháp thông đến trăm kiếp mà hạnh tự lợi càng kiên cố vĩnh viễn. Như thế, dù muôn đời, trăm kiếp, hình như thời-gian biến đổi mà hai hạnh tự lợi và lợi tha đều bất hủ, đó là thật tướng của bất-thiên vậy.

CHÁNH VĂN

Dùng đất đắp thành núi phải nhờ ky đất đầu tiên, cũng như đi đến nơi ngàn dặm phải nhờ bước đầu. Nên Công-đức đã thành bậc Thánh mà vạn hạnh viên mãn chẳng khác với Sơ-tâm, phát Tâm và Cứu-cánh hai sự chẳng khác, từ nhân đến quả mà hạnh hạnh bất thiên. Duy-ma-cật nói : "Nghiệp sở tác cũng chẳng quên, chẳng quên tức là bất hủ". Thiện ác đều như vậy, quả thật chứng tỏ công-hạnh và sự-nghiệp bất hủ.

Công-nghiệp bất hủ nên dù ở xưa mà chẳng biến đổi; chẳng biến đổi là "bất thiên", bất thiên thì thật tướng trạm-nhiên rõ ràng; cho nên Kinh nói "Ba thứ tai nạn lớn của Hoại-kiếp (thủy tai, hỏa tai, phong tai) cùng khắp Pháp-giới mà Hạnh-nghiệp trạm-nhiên chẳng động, chẳng hoại". Như thế cái nghĩa "Cực thiên" là "Cực bất thiên" thì lời ấy đáng tin lắm !

Tại sao ? Quả chẳng cùng nhân mà vì nhân thành quả; vì nhân thành quả, nhân xưa chẳng mất; quả chẳng cùng nhân, nhân chẳng đến nay; chẳng mất, chẳng đến thì ý-chỉ của Bất-thiên rõ ràng, đâu còn mê lầm chỗ đi - ở mà do dự giữa động & tịnh vậy.

Như thế, Trời đất đảo lộn chớ cho là không tịnh, bão lụt khắp Trời chớ cho là có động; nếu khế ngộ được tức Vật tức Chân thì trước mắt đều là thật tướng thường trụ, tất cả vạn pháp chẳng mảy may có thể động chuyển; như vậy chẳng cần tìm cầu nơi xa mà ngay đó biết được vậy.

LƯỢC GIẢI :

Tôi (Hám Sơn) xem quyển Chánh Pháp Nhãn Tạng, Hòa-thượng Phật Giám thị Chúng, kể Công-án :

- Tăng hỏi Triệu Châu : Thế nào là nghĩa "bất thiên".

Triệu Châu dùng hai tay làm thế như nước chảy thì Tăng đó tỉnh ngộ.

Còn một Công-án khác :

- Tăng hỏi Pháp Nhãn : Chẳng chấp lấy tướng, như như bất động, thế nào là chẳng chấp lấy tướng, thấy chỗ bất động vậy ?

Pháp Nhãn đáp : Mặt-trời mọc ở phương đông, lặn ở phương tây.

Tăng đó cũng tỉnh ngộ.

Nếu mà thấy được chỗ nầy mới biết rằng gió bão bay núi mà thường tịnh, nước sông đổ gấp mà chẳng trôi. Nếu không thì chẳng khỏi bị chê là nhiều chuyện.

Tác giả bài viết: thichdaophat

Nguồn tin: Tông Phong Tàng Thư

Theo dòng sự kiện

Xem tiếp...

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn