17:47 EDT Thứ sáu, 04/10/2024

Giới Thiệu

Tổ Bồ-đề-đạt-ma

  Tổ Bồ-đề-đạt-ma là người Nam Thiên Trúc, con thứ ba của vua nước Hương Chí, họ Sát-lỵ, trước tên là Bồ-đề-đa-la, về sau khi đắc Pháp nơi Tôn-giả Bát-nhã-đa-la, Tôn-giả nói : “Ngươi đối với các pháp đã được thông đạt. Đạt-ma là thông đạt đại nghĩa, nên Ta đổi tên cho ngươi là...

Danh mục chính

Liên Kết Trang

TS NGUYET KHE
HUE NANG
TS DUC SON

Trang nhất » Tông Phong Tàng Thư » Luận, Giảng » Triệu Luận

Triệu Luận - phần V

Thứ sáu - 29/03/2013 17:54 Xem: 1154
Niết-bàn vô danh (phần đầu)

NIẾT BÀN VÔ DANH

GIẢI ĐỀ :

NIẾT BÀN VÔ DANH LUẬN là Luận về Niết-bàn. Hai chữ Niết-bàn là chữ Phạn, dịch là Viên-tịch. Ngũ trụ (1) sạch hết gọi là Viên, nhị tử (2) vĩnh vong gọi là Tịch, cũng là biệt danh của Nhất-tâm tịch diệt, chân thể của thanh tịnh Pháp-thân, chẳng phải như người thế gian hiểu lầm cho là chết. Vì tam thế chư Phật tu nhơn trải qua nhiều kiếp, chứng đắc cái Chân-thể của Nhất-Tâm nầy, gọi là Pháp-thân; vì đáp lại cái nhơn quảng đại, gọi là Báo-thân; tùy cơ lợi ích chúng sanh, gọi là Hóa-thân.

Tất cả chư Phật đều đầy đủ Tam-thân : Pháp-thân là thể, Báo-thân, Hóa-thân là dụng, có cảm ứng thì hiện, không cảm ứng thì ẩn; ẩn mà chẳng hiện thì viên qui Nhất-tâm, nhiếp dụng trở về Chơn-thể gọi là nhập diệt, tức Niết-bàn chẳng phải là sanh tử.

Vì Nhất-tâm nầy ngũ trụ phiền não chẳng che lấp được nên gọi là Viên; hai thứ sanh tử chẳng thể bó buộc nên gọi là Tịch.

Giáo-môn tả về chỗ xuất phát, nói có bốn thứ :

l. Tự-tánh Niết-bàn : Tức là Nhất-tâm này cùng khắp mọi nơi, là bản thể của các pháp, Tự-tánh vốn tịch diệt. Cũng như nói : Có Phật hay không có Phật, tánh tướng thường trụ, tất cả chúng sanh vốn diệt độ, chẳng cần diệt nữa, nên gọi là "Tự-tánh Niết-bàn".

2. Hữu-dư Niết-bàn : Nói sự chứng của ba Thừa, vô minh chưa sạnh hết, biến dịch sanh tử chưa dứt, sự chứng lý chưa được cùng tột, nghĩa là còn dư một khoảng đường chưa giẫm đến, nên gọi là "Hữu-dư Niết-bàn".

3. Vô-dư Niết-bàn : Tức là Phật đã tu thành, vọng đã hết, chân đã sạch, Thể-dụng bất nhị, cũng là chứng được quả Vô Thượng Đại Niết-bàn, nên gọi là "Vô-dư Niết-bàn".

4. Vô-trụ Niết-bàn : Tất cả bậc Thánh chẳng lấy hữu vi, chẳng trụ vô vi, nhị biên đều bất trụ, Trung-đạo cũng chẳng lập, động tịnh bất nhị, tổng danh là Niết-bàn, nên gọi là "Vô-trụ Niết-bàn".

Bốn thứ tên gọi này chỉ theo Thể và Dụng đặt tên, kỳ thật trong Nhất-tâm danh tướng đều tịch, nên gọi là "Vô Danh", tức là Sanh-tử và Niết-bàn cả hai đều bất khả đắc, cho nên hai chữ "Vô Danh" là cái tổng danh của Nhất-tâm thường trụ, bất sanh bất diệt.

Hai bài Luận "Vật Bất Thiên" và "Bất Chân Không" ở trước là cảnh sở quán, "Bát-nhã" là Trí năng quán, ba luận ấy đều là nhân, nay "Niết-bàn" nầy là quả sở chứng, nên lấy làm Luận.

Ghi chú : (1) Ngũ trụ :

1. Kiến nhất thiết trụ địa phiền não : Tức là tất cả kiến giải mê lầm của tam-giới.

2. Dục ái trụ địa phiền não : Tức là tư tưởng mê lầm của Dục-giới; trong tư tưởng mê lầm, nặng nhất là cái lỗi tham ái, nên đề ra cái chánh để bao gồm tất cả phiền não khác.

3. Sắc ái trụ địa phiền não : Tức là tất cả tư tưởng mê lầm của Sắc-giới.

4. Hữu ái trụ địa phiền não : Tức là tất cả tư tưởng mê lầm của Vô-sắc-giới; vô-sắc-giới dù chẳng có Sắc-thân, nhưng còn chấp A-lại-da thức làm Ngã, còn ngã là còn có ái, nên gọi là hữu ái.

5. Vô minh trụ địa phiền não : Tức là nguồn gốc của tất cả phiền não.

Năm thứ phiền não kể trên gọi tắt là 'ngũ trụ'. Nói trụ địa vì năm pháp này là chỗ vô sanh khởi tất cả tội lỗi cũng là chỗ dựa căn bản của Hằng--sa số phiền não.

(2) Nhị tử : 1. Phần đoạn sanh tử : Tức là sanh tử của phàm phu từ đoạn này sang đoạn kia, như từ thân người sang thân thú.

2. Biến dịch sanh tử : Cũng là sanh tử của bậc Thánh đã chứng quả tam-thừa, như bỏ A-la-hán biến Bích-chi-phật, bỏ Bích-chi-phật biến Bồ-tát sơ-địa, bỏ Bồ-tát sơ-địa biến Bồ-tát nhị-địa v.v...

 

BIỂU VĂN TRÌNH VUA TẦN

Trước kia, vua Tần có nói : "Đạo Phật lấy Vô-vi làm Tông". An-thành-hầu Diêu Tung hỏi rằng : "Chẳng rõ sự Vô-vi của Đạo lấy gì làm thể ?"

Lời đáp của vua Tần chỉ rõ : Niết-bàn là Tông-thể của Vô-vi, mà tổng kết lại thành hai chữ "Vô Danh". Ấy là nhân duyên của Tác-giả làm Luận này.

Theo lời Biểu văn của ngài Tăng Triệu trình cho Vua có đoạn như sau :

Tại sao nói là Vô Danh ?

Vì chúng sanh từ lâu nay ở trong sanh tử luân hồi đều do sự chấp trước ái dục, nếu ái dục ngưng nghỉ nơi tâm thì chẳng còn sanh tử luân hồi. Đã không có sanh tử thì Chân-tâm nhiệm mầu vắng lặng, cái đức dụng âm thầm hợp với hư-không, nên gọi là "Niết-bàn". Đã nói là Niết-bàn thì đâu còn dung nạp cái tên vào trong ấy nữa ?

Nay cái bản ý lập Luận này là muốn làm sáng tỏ Chân-thể tịch diệt của Niết-bàn vô danh để bài xích những tà-kiến Ngoại-đạo. Vì lúc đương thời có một hạng người học Phật, cho Vô-vi là chẳng có bậc Thánh, lọt vào đoạn-kiến, xóa bỏ nhân quả; chê cười những người tu hành, cho là chấp tướng, đem tà-kiến này tuyên truyền khắp nơi; lấy làm tự đắc, nên chẳng thể sửa đổi cho đúng với Chánh-pháp được.

Nay nhờ bức thơ của vua Tần đáp Diêu Tung rằng : "Nếu chẳng có bậc Thánh thì ai biết sự chẳng có ?"

Chỉ một lời nầy làm cho bọn tà thuyết im lặng, nên lập Luận này diễn tả thêm để giúp cho Giáo-pháp được sáng tỏ.

Luận này gồm chín đoạn vấn nạn, mười đoạn diễn tả, mượn "Hữu danh" thay cho vấn nạn, mượn "Vô Danh" thay cho giải đáp, để hiển bày Chánh-lý của "Vô Danh".

l. KHAI TÔNG RÕ NGHĨA

Vô Danh nói :

Như Kinh nói : "Hữu-dư Niết-bàn và Vô-dư Niết-bàn dịch là Vô-vi, cũng gọi là Diệt-độ". Vô-vi là lấy sự trống rỗng tịch diệt, lìa danh lìa tướng, cách tuyệt với hữu-vi. Diệt-độ là nói sự tai họa lớn của Sanh-tử vĩnh viễn tiêu diệt, siêu độ Lục-đạo luân hồi.

Ấy là chỗ thức tỉnh của mở mắt chiêm bao, cũng là tuyệt danh của căn nhà nhiệm mầu. Nói hai tên "Hữu-dư" và "Vô-dư", ấy chỉ là tên khác biệt của xuất xứ, giả danh của ứng cơ hóa độ mà thôi. Tùy duyên hiện thân thuyết Pháp gọi là xuất, duyên hết trở về ẩn gọi là xứ. Nay tôi thử Luận bàn rằng :

Cái đạo của Niết-bàn tịch diệt trống rỗng chẳng thể theo danh tướng mà tìm, vi diệu vô tướng chẳng thể dùng hữu tâm mà tri; cao siêu Tam-giới, mê hoặc đều dứt, chứng lượng như hư-không, Chánh-lý cùng tột; muốn đuổi theo thì chẳng thể tìm ra tông tích (vị lai vô chung), muốn trở lại tìm chỗ xuất phát thì chẳng thấy bắt đầu (quá khứ vô thủy); Lục-đạo chẳng thể làm cho sanh khởi, sức mạnh chẳng thể làm cho biến đổi. Thể-tánh mênh mông chẳng có bờ bến, bậc Trí chẳng thể định danh. Như trụ thì sanh mà chẳng sanh, như đi thì diệt mà chẳng diệt. Ngũ nhãn chẳng thấy được dung mạo, vì lìa sắc; nhị thính (nhục nhĩ, thiên nhĩ) chẳng nghe được âm thanh, vì lìa thanh. Mịt mù thâm sâu, ai thấy ai hiểu ? Trùm khắp bao gồm, không có chỗ nào chẳng tồn tại, mà lại siêu việt nơi có và không.

Thế thì hễ nói được là mất cái Chân, biết được thì trở thành kẻ ngu; được "có" là trái với Tự-tánh, được "không" là tổn thương Pháp-thân.

Cho nên khi Phật Thích-ca mới thành Đạo, tự nhốt mình trong phòng mà chẳng thuyết Pháp; Văn-thù hỏi về Pháp-môn bất nhị thì Duy-ma-cật ngậm miệng; Tu-bồ-đề tĩnh tọa trong hang, Đế-thích tán hoa cúng dường cho là khéo thuyết Bát-nhã; khen ngợi chẳng nói mà nói, chẳng nghe mà nghe, ấy đều do Chánh-lý là cái đạo tuyệt ngôn, chỉ có người chứng mới được lãnh hội, nên miệng do đó mà nín, đâu phải chẳng có biện tài. Vì biện tài chẳng thể nói được.

Kinh nói : "Sự chân giải thoát lìa ngôn ngữ, tướng số, tịch-diệt vĩnh an, vô thỉ vô chung, chẳng tối chẳng sáng, không lạnh không nóng, trạm-nhiên thường tịch như hư-không, vô danh vô thuyết".

Trung Quán Luận nói : "Niết-bàn phi hữu lại cũng phi vô, con đường của ngôn ngữ chấm dứt, chỗ suy lường của tâm ý, tiêu diệt". Theo những lời của Kinh & Luận trên, đâu phải chẳng đúng sự thật.

Như thế, quả thật có cái sở dĩ chẳng có, nên chẳng thể cho là có; có cái sở dĩ chẳng không, nên chẳng thể cho là không vậy.

Tại sao ? Hễ truy cứu cảnh "Có" thì ngũ Ấm vĩnh viễn tiêu diệt (diệt thì lìa khổ, gọi là lạc đức); truy cứu cảnh "không" thì sự nhiệm mầu linh tri thường tồn (gọi là ngã đức); nhiệm mầu linh tri thường tồn nên dầu bặt thấy nghe mà nhất chân trạm-nhiên thường tịch (ấy là thường đức); ngũ Ấm vĩnh viễn tiêu diệt thì vô biên phiền não đều sạch (tịnh đức); vô biên phiền não đều sạch nên thông đạt với Đạo; nhất chân trạm nhiên thường tịch nên diệu dụng mà chẳng thấy công dụng. Diệu dụng mà chẳng thấy công dụng nên chí công thường tồn; thông đạt với Đạo nên thâm sâu mà chẳng biến đổi. Thâm sâu mà chẳng biến đổi nên chẳng thể cho là có; chí công thường tồn nên chẳng thể cho là không.

Thế thì "có, không" tuyệt bên trong, tên gọi bặt bên ngoài, sự thấy nghe chẳng thể đến, người cõi Tứ-không (vô-sắc-giới) mê muội chẳng hiểu biết. Bình đẳng nhất như mà vô trụ, trống rỗng chiếu soi mà khắp nơi, là quê hương của tất cả chúng sanh, cũng là nguồn gốc cứu cánh của chư Phật.

Ấy là cái cảnh chẳng thể thấy nghe, xứ sở của Thái-huyền (nhiệm mầu lại thêm nhiệm mầu), mà muốn lấy sự "Có" và "Không" để gán tên chỉ bày phạm vi của Niết-bàn, dùng lời nói để tả cái Đạo thần-diệu mà tự cho là đắc chí, há chẳng phải lại càng xa xôi ư ?  

2. TẦM THỂ LẬP DANH ?

Hữu Danh vấn :

Danh hiệu chẳng phải khi không mà đặt ra, tên gọi chẳng phải tự mình đương nhiên mà sanh khởi. Trong Kinh nói : "Hữu-dư Niết-bàn và Vô-dư Niết-bàn là cái Chân-danh trở về Tự-tánh, cũng là tên gọi của Đạo-pháp thần diệu". Nay tôi xin trình bày thử :

Hai chữ "Hữu dư" có nghĩa nói là Ứng-thân của Như-lai mới hiện ra, Pháp-thân bắt đầu kiến lập, là tắm rửa trong dòng nước "8 giải-thoát", nghỉ ngơi trong vườn an nhàn của "7 giác-chi", tích chứa muôn thiện từ nhiều kiếp, rửa sạch cáu bẩn từ vô thỉ. Tam minh chứng ngộ bên trong, diệu dụng chiếu soi bên ngoài. Phát thệ nguyện nơi sơ tâm, độ chúng sanh cho đến cuối cùng, trên cầu quả Phật, dưới cứu độ chúng sanh, siêu việt Tam-giới, độc chứng Đại-giác.

Mở đường bằng phẳng của Bát Chánh-đạo, quét sạch tà kiến của các phái tà-tông. Cỡi thần mã của lục thông, đi xe yên ổn của ngũ Thừa. Ra vào trong sanh tử để tùy cơ hóa độ chúng sanh, Đạo-pháp sung mãn, đức dụng kháp nơi, cùng tột đến chỗ tạo hóa mới sanh khởi, cực diệu dụng của Thánh-trí.

Tâm cảnh trống rỗng khắp Vũ-trụ, soi sáng Pháp-giới bởi Nhất-thiết-trí. Nhân duyên hóa độ ngưng nơi 9 Địa, chìm nơi Thái-hư mà còn nhân duyên chưa hết; sự tích Giáo-hóa chưa được viên tròn, vô minh chưa tẩy sạch, Thánh-trí vẫn còn, đấy là Hữu-dư Niết-bàn.

Trong Kinh nói : "Tiêu tan trần lao phiền não, như luyện vàng thật, muôn khổ đều hết mà Linh-giác độc tồn". Hai chữ "vô dư" là nơi nhân duyên Giáo-hóa của bậc Chí-nhân đã xong, linh chiếu vĩnh viễn tiêu diệt vì cơ cảm đều tuyệt, nên gọi là vô dư.

Tại sao ? Họa lớn chẳng bằng nơi có thân, nên phải diệt thân để trở về "Không". Lao nhọc chẳng bằng nơi có trí, nên phải bặt trí để vào nơi trống rỗng. Thế thì trí bởi hình thể mà mệt mỏi, hình thể bởi trí mà lao nhọc, nhiều kiếp luân hồi trong Lục-đạo là bởi cái lỗi của thân-tâm.

Trong Kinh nói : "Tâm-trí là cái gốc của tất cả độc, hình thể là chỗ tựa của gông cùm" xa với Chánh-lý thâm sâu vắng lặng, nên tai họa do đó mà sanh khởi, cho nên bậc Chí-nhân tiêu thân diệt trí, bỏ hình thể, tuyệt suy tư; bên trong không có cái lao nhọc của ứng cơ chiếu soi, bên ngoài thì cắt đứt cái nguồn gốc của tai họa.

Siêu nhiên nơi Tam-giới thì sự sanh tử vĩnh viễn cắt tuyệt, trống rỗng bao la, đồng một thể với hư-không. Tịch diệt chẳng có sự thấy nghe, trống rỗng chẳng có dấu tích, âm thầm mờ mịt chẳng có chỗ đến; cũng như đèn tắt, dầu cùng với ánh sáng đều hết, ấy là Vô-dư Niết-bàn.

Kinh nói : "Ngũ Ấm vĩnh tận, cũng như đèn tắt". Thế thì Hữu-dư có thể Hữu-danh, Vô-dư có thể Vô-danh. Vô-danh đặt rồi thì kẻ tôn sùng hư-vô ham thích với sự thâm sâu vắng lặng, Hữu-danh sanh khởi thì kẻ nhớ ân đức càng ngưỡng mộ công lao của bậc Thánh.

Ấy là lời văn trong Kinh-điển là sự Giáo-hóa hợp lý của Đức Phật; mà Luận lại nói "có, không" tuyệt ở bên trong, tên gọi chìm mất bên ngoài, sự thấy nghe chẳng thể đến, người cõi Tứ-không mê muội chẳng thể hiểu. Làm cho người nhớ ân đức tự cách tuyệt với Đạo, kẻ tôn sùng hư-vô chẳng có chỗ nương tựa, chẳng khác gì lấp bít tai mắt trên cơ thể, che bít ánh sáng Nhật-nguyệt nơi hư-không, mà lại còn trách người chẳng phân biệt được màu sắc, âm thanh, đâu có lý như vậy ?

Ông chỉ biết suy tôn bậc Chí-nhân, siêu việt sự có không, tự cho lời văn vượt ra ngoài danh tướng, mà ý chỉ trong Luận lại làm cho người đọc chẳng biết chỗ quy hướng, nên Đạo của Niết-bàn tự ẩn mà chưa được hiển bày.

Tôi im lặng suy nghĩ tìm hiểu, cảm thấy chẳng có chỗ nương tựa, vì thế đâu có thể cho là sáng tỏ ý nghĩa Niết-bàn nơi nhà đen tối, đàn tiếng nhạc nhiệm mầu nơi đất tuyệt thính ư ?  

3. LẬP THỂ VÔ DANH

Vô Danh đáp :

Hữu-dư, Vô-dư là tên gọi bên ngoài của Niết-bàn, giả danh của sự ứng cơ hóa độ mà thôi, mà kẻ đuổi theo tên gọi là chấp danh, kẻ ghi nhớ hình tượng là chấp tướng. Danh hiệu hạn chế nơi đề mục, hình tướng phạm vi trong vuông tròn. Cũng có chỗ chẳng thể lấy vuông tròn để diễn tả, lấy đề mục để truyền nhau được, đâu có thể lấy tên gọi gán vào nơi vô danh, lấy hình tướng để gán vào nơi vô hình ?

Bởi vì thể tánh của Niết-bàn lìa danh lìa tướng, chẳng phải cảnh giới của phàm tình, vậy cái Đạo vô hình vô tướng ấy đâu có thể đuổi theo hình, danh mà tìm cầu được.

Lời vấn nạn rằng : "Hữu-dư, Vô-dư là bản ý phương tiện tịch diệt để thiết lập Giáo-môn, cũng là sự tích "ẩn và hiển" của Như-lai. Nhưng chưa phải là sự thâm sâu tuyệt ngôn của nhiệm mầu tịch diệt, cũng chẳng phải là Diệu-đạo cứu thế của bậc Trí-nhân.

Ông chưa nghe được cái thuyết Chánh-quán ư ? Duy-ma-cật nói :

"Ta quán Như-lai vô thỉ vô chung, vượt qua lục Căn, ra ngoài Tam-giới, chẳng tại phương, chẳng lìa phương, chẳng hữu-vi, chẳng vô-vi. Chẳng thể dùng Thức để biết, chẳng thể lấy Trí để hiểu, vô ngôn vô thuyết, chỗ suy lường của Tâm-ý tiêu diệt". Theo đó để quán là Chánh-quán, nếu quán theo cách khác thì chẳng thấy Phật được.

Kinh Phóng Quang nói : "Phật như hư-không, vô khứ vô lai, ứng cơ mà hiện, chẳng có phương sở".

Thế thì, bậc Thánh ở nơi Vũ-trụ tịch diệt trống rỗng, không chấp trước, không tranh biện. Có tranh biện là nói sanh tử, không tranh biện là nói Niết-bàn; Sanh-tử và Niết-bàn cả hai đều bất khả đắc, dẫn dắt nó mà chẳng đi trước, cảm thông rồi sau mới ứng cơ. Tỷ như tiếng ở trong hang, hình bóng ở trong gương sáng, đối diện mà không biết từ đâu đến, đuổi theo chẳng hiểu chỗ đi; chớp nhoáng mà có, mập mờ mà không, động lại càng tịnh, ẩn lại càng tỏ, ra vào nơi có, không; thâm sâu âm thầm, biến hóa vô thường, chẳng thể suy lường được.

Đặt ra tên gọi là bởi ứng cơ hóa độ, hiển bày sự tích là sanh, ngưng nghỉ sự tích là diệt; sanh gọi là Hữu-dư, diệt gọi là Vô-dư. Thế thì tên gọi của hữu, vô là sanh khởi từ vô danh, mà cái Đạo vô danh thì chỗ nào chẳng phải danh ?

Cho nên bậc Chí-nhân ở nơi vuông thì vuông, ở nơi tròn thì tròn, ở cõi Trời thì làm Trời, ở cõi người thì làm người, bởi vì cái năng lực làm Trời, làm người đâu phải hạng Trời, người có thể làm được ? Vậy rõ ràng chẳng phải Trời, chẳng phải người nên mới làm Trời, làm người được mà thôi.

Do đó, khi hóa độ chúng sanh, ứng cơ mà chẳng có việc làm, vì làm mà chẳng qua sự tác ý, vì chẳng qua sự tác ý nên sự làm rộng lớn chẳng thể nghĩ bàn; chẳng làm mà ứng cơ nên sự ứng cơ phổ biến, chẳng thể suy lường. Sự làm rộng lớn chẳng thể bàn nên trở lại nơi vi ẩn, sự ứng cơ phổ biến chẳng thể suy lường nên quy về Vô Danh.

Kinh nói : "Đạo Bồ-đề chẳng thể suy lường, cao mà vô thượng, rộng chẳng bờ bến, thâm sâu mà không đáy, xa xôi chẳng có chỗ đến. Lớn bao gồm Trời-đất, nhỏ nhập vào lân-hư (bụi trần cực nhỏ), nên gọi là Đạo".Thế thì đạo của Niết-bàn chẳng thể lấy sự hữu-vô để tìm đã rõ ràng rồi. Thế mà kẻ mê hoặc thấy sự Thần-biến lại cho là có, thấy sự Diệt-độ liền cho là không, cái cảnh "có, không" là trong phạm vi của vọng tưởng, đâu có thể làm tiêu biểu cho Huyền-đạo mà diễn tả Chân-tâm của bậc Thánh ?

Ý nói bậc Chí-nhân tịch diệt trống rỗng chẳng có dấu tích, ẩn và hiển cùng một nguồn gốc, "Tồn" chẳng cho là có, "Vong" chẳng cho là không. Tại sao ? Phật nói : "Ta vô sanh, vô sanh bất sanh, dù cho sanh mà chẳng sanh; vô hình bất hình, dù hiện hình mà chẳng thấy hình". Nên biết "Tồn" chẳng cho là có.

Kinh nói : "Bồ-tát nhập vô tận tam-muội, thấy hết cả quá khứ chư Phật diệt-độ". Lại nói : "Nhập nơi Niết-bàn mà chẳng thấy Niết-bàn". Nên biết "vong" chẳng thể cho là không. "Vong" (vong tức là mất, trái với tồn) chẳng thể cho là không, dù không mà có; chẳng thể cho là có, dù có mà không. Dù có mà không nên gọi là phi hữu; dù không mà có, nên gọi là phi vô.

Thế thì, cái đạo của Niết-bàn quả thật vượt ra ngoài phạm vi có và không, nên đường đi của ngôn ngữ và tướng số phải cắt đứt. Mà ông lại nói "Cái tai họa của bậc Thánh là tại nơi có thân, nên diệt thân để trở về không; lao nhọc chẳng bằng nơi có trí, nên bặt trí để chìm nơi trống rỗng". Há chẳng phải trái với Chánh-lý cùng tột của Pháp-thân, tổn thương ý chỉ nhiệm mầu của Niết-bàn ư ?

Kinh nói : "Pháp-thân vô tướng, ứng cơ mà hiện hình; Bát-nhã vô tri, đối duyên mà chiếu soi". Vì ứng cơ nơi vô tâm, nên dù cho muôn việc xảy ra cùng một lúc mà chẳng thấy lao nhọc, ngàn lời vấn nạn khác biệt mà đối phó chẳng cần suy tư.

Vô tâm nơi ứng cơ nên động như mây bay, tịnh như tiếng vang, đâu có tâm nơi bỉ thử và tình cảm dính dáng nơi động tịnh ? Đã vô tâm nơi động tịnh, cũng vô tướng nơi khứ lai. Vì khứ lai chẳng có tướng nên không có vật nào mà chẳng hiện hình; vì động tịnh chẳng có tâm nên không có cảm thông nào mà chẳng ứng cơ.

Thế thì, tâm sanh nơi hữu tâm, tướng xuất nơi hữu tướng; tướng chẳng xuất nơi ta nên dù kim thạch chảy mà ta chẳng cháy, tâm chẳng sanh nơi ta nên tuy ứng dụng hằng ngày mà chẳng động; vạn pháp tự nó lăng xăng, đâu có dính dáng với ta ? Thế thì còn có tai họa gì ?

Cho nên Trí-huệ cùng khắp vạn vật mà chẳng lao nhọc, hình thể sung mãn mười phương mà chẳng tai họa, sự lợi ích chẳng thể thêm, sự tổn hại chẳng thể bớt; đâu thể lấy sự Đức Phật thị hiện nhập tịch cho là như đèn tắt mà gọi là Vô-dư Niết-bàn ? Chẳng biết Pháp-thân thường trụ, sự thị hiện nhập tịch ấy chỉ là phương tiện để hóa độ chúng sanh mà thôi.

Thế mà kẻ mê hoặc ở nơi cảnh giới thấy nghe, tìm kiếm sự tích khác biệt của ứng cơ hóa độ; cầm lấy cây thước kẻ để đo lường hư-không, muốn lấy tâm trí để làm lao nhọc cho bậc Thánh, lấy hình thể để làm tai họa cho Chí-nhân, mà bỏ có vào không, do đó đặt tên cho Niết-bàn Hữu-dư và Vô-dư; đó đâu phải là lời nói tinh vi, siêu việt thấy nghe, hiển bày Pháp-thân nơi trống rỗng ? 

4. TRÁCH VẤN LUẬN CỨ ?

Hữu danh vấn :

Thời hỗn mang sơ khai (kiếp không) vạn hữu sanh khởi, vạn hữu đã có rồi thì chẳng thể cho là không, không chẳng tự không, phải do nơi có; có và không tương sanh với nhau, ấy là lý lẽ tự nhiên, số lượng của hiện tượng thế giới cùng tột ở nơi đây.

Theo đó mà quán, tạo hóa sanh ra vạn vật, lý lẽ chẳng có ẩn dấu và hiển bày, sự lớn nhỏ, thọ yểu, thành thật và dối trá đều là có cả. Sự có do biến đổi mà tiêu diệt, diệt rồi tức là thật không. Thế thì cái cảnh "có, không" trên thế gian đều thuộc về Chánh-lý này.

Kinh nói : "Hai pháp có, không" gồm tất cả pháp, cũng gọi là tam vô-vi, là ba thứ vô-vi ở trong Duy-thức học :

l. Hư-không vô-vi là dụ cho lý của Chân-như giống như hư-không, thể tánh thường trụ.

2. Trạch-diệt vô-vi : do số lượng của trí huệ phân tích mà chứng quả Tịch-diệt, cũng là Niết-bàn nhị Thừa.

3. Phi trạch-diệt vô-vi là Chánh-lý của "Viên thành thật", vốn là tịch-diệt, chẳng cần diệt nữa, nên gọi là phi trạch diệt, tức là Vô-dư Niết-bàn vậy.

Luận nói : "Ngoài sự có và không, còn có cái đạo huyền diệu khác, huyền diệu hơn sự có và không, gọi là Niết-bàn".

Nhưng tôi suy xét cái bản thể của đạo huyền diệu, nếu quả thật là có, dù cho huyền diệu, chẳng phải là không. Dù huyền diệu chẳng phải là không, tức là chỗ cảnh thật có rồi; nếu quả thật là không thì phải thật không, không mà thật không tức là vào nơi cảnh thật không.

Nói tóm lại, chẳng có sự khác với có mà phi vô, chẳng có sự khác với không mà phi hữu đã rõ ràng rồi. Theo Giáo-lý suy xét nguồn gốc, chẳng ra ngoài sự có và không, đâu phải khác với sự có mà lại nói chẳng không, khác với sự không mà lại nói chẳng có ? mà Luận nói : "Ngoài sự có và không còn có đạo huyền diệu khác, là phi hữu phi vô, gọi là Niết-bàn", tôi nghe lời này thật chưa hợp với Chân-tâm.  

5. SIÊU CẢNH HỮU VÔ

Vô Danh đáp :

Tên gọi của "Hữu" và "Vô" dù cho không pháp nào chẳng bị bao gồm, không có lý nào chẳng bị lệ thuộc, nhưng sự bao gồm lệ thuộc chỉ là Tục-đế mà thôi.

Trong Kinh nói : "Chân-đế là gì ? Là đạo của Niết-bàn vậy. Tục-đế là gì ? Là pháp hữu và vô vậy". Tại sao ? Hữu là hữu nơi vô (1), Vô là vô nơi hữu (2). Cho nên, hữu cái sở vô gọi là "Hữu", vô cái sở hữu gọi là "Vô"; "Hữu" và "Vô" đối đãi nhau mà hình thành,nên gọi là Tục-đế.

Thế thì hữu sanh nơi vô, vô sanh nơi hữu : Lìa hữu chẳng vô, lìa vô chẳng hữu; hữu và vô tương sanh với nhau cũng như quay bánh xe; cao thấp thay phiên với nhau, có cao thì phải có thấp, có thấp thì phải có cao.

Như thế, hữu và vô dù khác biệt đều chẳng thể lìa nơi hữu vậy. Ấy là chỗ hình thành của ngôn ngữ, chỗ sanh khởi của thị phi, lý chẳng nhất định, đâu có thể bao gồm hết cả sự nhiệm mầu cùng tột mà diễn tả cái Đạo thần diệu của Niết-bàn ?

Cho nên Luận nói : "Siêu xuất hữu vô" là bởi cái tên của hữu vô chỉ hạn chế trong cảnh lục Căn và lục Trần. Trong cảnh lục Căn, lục Trần chẳng phải là căn nhà nhiệm mầu của Niết-bàn, nên mượn chữ "xuất" để quét tình mê chấp mà thôi.

Hy vọng những người học Đạo, do lời nói tỉ lượng diễn tả sự thâm sâu của Niết-bàn, gởi tâm nơi quên tình tuyệt chứng, được ý quên lời, khế ngộ sự phi hữu, phi vô thôi. Đâu phải ở ngoài hữu và vô còn có một cái hữu để gọi vậy, ấy là chấp lời nói mà chẳng hiểu ý chỉ, thiệt sai lầm biết bao !

Trong Kinh nói : "Tam vô-vi là bởi chúng sanh lăng xăng qua lại trong sanh tử". Bệnh sanh-tử do nơi tai họa của căn-trần, sự tai họa lớn nhất của căn-trần trước tiên là do nơi hữu. Muốn xóa bỏ sự hữu, trước tiên phải dùng vô, nên mượn chữ  để sáng tỏ sự phi hữu, sáng tỏ sự phi hữu chẳng phải cho là thật không vậy.

Ghi chú : (1) Vì vốn chẳng có sanh tử mà nay thành có, vốn chẳng có thân tâm mà nay đã có, nên sự "hữu" là hữu nơi vô mà thôi.

(2) Bởi hàng Tiểu-thừa tiêu diệt thân tâm giải thoát sanh tử mà chứng vô-vi, nên sự "vô" là vô sự hữu mà thôi.    

6. SƯU TẦM HUYỀN DIỆU ?

Hữu danh vấn :

Trong Luận nói : Niết-bàn đã chẳng ra ngoài "có, không", cũng chẳng ở trong "có, không". Chẳng ở trong có-không thì chẳng thể tìm được ở nơi có-không; chẳng ra ngoài có-không thì chẳng thể lìa có-không mà tìm được. Chẳng có chỗ tìm thì phải tất cả đều không, mà lại nói "Diệu-đạo chẳng không", nếu Diệu-đạo chẳng không thì cái đường lối thâm sâu có thể tìm; cho nên ngàn Thánh đồng một quỹ đạo, chưa từng trống rỗng, chẳng có chỗ quy hướng.

Diệu-đạo đã còn mà lại nói chẳng ra ngoài, chẳng ở trong, ấy thì phải có ý chỉ khác thường, nay xin nói cho nghe được chăng ?  

7. DIỆU ĐẠO THƯỜNG TỔN

Vô Danh đáp :

Ngôn ngữ do danh hiệu mà khởi, danh hiệu do hình tướng mà sanh, danh tướng từ vọng tưởng bày ra. Nếu danh và tướng cả hai đều quên thì vô danh vô thuyết, ngôn thuyết đã không thì từ đâu mà nghe ?

Trong Kinh nói : "Niết-bàn phi pháp nên chẳng ở trong, phi phi pháp nên chẳng ra ngoài, không nói không nghe, vì Diệu-đạo lìa ngôn ngữ, chẳng phải do tâm ý mà biết được". Tôi đâu dám nói mà ông muốn nghe vậy.

Mặc dù như thế, Tu-bồ-đề nói : "Ta quán Bát-nhã vốn chẳng ngôn thuyết, nếu chúng sanh được vô tâm để lãnh thọ, chẳng nghe mà nghe thì ta sẽ chẳng nói mà nói". Nay vì trình bày lời của Phật đễ giải tỏa sự mê chấp, cũng có thể dùng lời nói để nói vậy. Duy-ma-cật nói : "Chẳng lìa phiền não mà chứng được Niết-bàn". Trong kinh Bửu Nữ Sở Vấn có bài Kệ của Thiên-nữ rằng :

                      "Như cảnh giới của Ma

                       Và cảnh giới của Phật

                       Bình đẳng đồng một loại,

                       Do đó Phật thấy Phật". (1)

Diệu-đạo chẳng ra ngoài, chẳng ở trong, nên Kinh nói : "Chẳng ra khỏi cảnh giới Ma mà nhập cảnh giới Phật". Việcấy cần phải diệu ngộ, đâu có thể chấp theo lời nói mà cầu được ?

Thế thì, Huyền-đạo ở nơi diệu ngộ, diệu ngộ ở nơi "Tức chân"; "Tức chân" thì "có, không" cùng quán một lượt, cùng quán một lượt thì người và mình chẳng phải là hai, cho nên Trời-đất với ta đồng một gốc, vạn vật với ta đồng một thể; đồng với ta thì chẳng còn sự có không, khác ta thì trái với sự dung thông; cho nên chẳng ra ngoài, chẳng ở trong, mà ngay đó Diệu-đạo thường tồn.

Tại sao ? Vì bậc Thánh nơi tâm trống rỗng mà âm thầm chiếu soi, từ lý đạt sự nên chẳng có chỗ nào mà chẳng bao gồm; ôm vũ trụ ở trong lòng mà linh minh chiếu soi có dư, hiện vạn hữu ở nơi tâm mà Chân-tâm luôn luôn trống rỗng; do sự 'diệu ngộ'nên được tẩy sạch phiền não, phá cái mê chấp từ vô thỉ, chứng được nguồn gốc nhiệm mầu của Niết-bàn. Ứng cơ mười phương, ngay nơi náo động mà Chân-tâm thường tịnh, trống rỗng vắng lặng mà khế ngộ tự nhiên.

Thật-trí chứng lý cùng tột nên ở nơi "có" mà chẳng có; Quyền-trí ứng cơ mười phương nên ở nơi "không" mà chẳng không; vì chẳng không nên chẳng kẹt nơi "không", vì chẳng có nên chẳng chấp nơi "có"; ở nơi "có" mà chẳng có, nên chẳng có ở nơi "có"; ở nơi "không" mà chẳng không, nên chẳng không ở nơi "không".

Như thế nên chẳng ra ngoài có-không cũng chẳng ở trong có- không, đâu có thể cho nhất định phải tìm cầu ở nơi "có" và "không" vậy.

Thế thì, vạn pháp chẳng có cái tướng "có, không" (cảnh không), bậc Thánh chẳng có cái tri "có, không" (tâm không). bậc Thánh chẳng có cái tri có-không thì chẳng tác ý bên trong, vạn pháp chẳng có cái tướng có-không thì chẳng có danh tướng bên ngoài. Chẳng danh tướng bên ngoài thì cảnh tuyệt, chẳng tác ý bên trong thì trí bặt.

Cảnh và tâm cả hai đều tịch diệt thì vật và ngã âm thầm hợp một, trống rỗng chẳng mảy lông, nên gọi là Niết-bàn. Niết-bàn nếu như thế thì sự suy lường cắt tuyệt, đâu còn có thể chấp sự có-không ở bên trong và tìm cầu sự có- không ở bên ngoài ư ?

Ghi chú : (1) Chỉ có người Kiến-tánh thành Phật mới thấy được Phật-tánh của Ma với Phật không khác.  

Tác giả bài viết: thichdaophat

Nguồn tin: Tông Phong Tàng Thư

Theo dòng sự kiện

Xem tiếp...

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn