Kinh Lăng Già Quyển 3 - Phần 3
- Thứ bảy - 06/04/2013 23:47
- |In ra
- |Đóng cửa sổ này
- Thế Tôn ! Như Thế Tôn sở thuyết, trí huệ quán sát Tiền Cảnh phan duyên các pháp, chẳng thấy có một pháp để đắc, ấy chỉ là giả lập phương tiện, sở nhiếp thọ và năng nhiếp thọ phi tánh thì cả hai đều không, thế thì trí cũng chẳng thể nhiếp thọ cái thuyết "Phân biệt bất sanh", ấy gọi là Trí. Vậy cái tên 'Trí' này cũng là phương tiện giả lập mà thôi. Thế nào ? Thế Tôn ! Vì chẳng giác được tánh của tự tướng cộng tướng khác hay chẳng khác nên chẳng đắc tướng Trí ư ? Hoặc vì mỗi mỗi tánh tướng của tự tướng cộng tướng tự che khuất nên chẳng đắc tướng Trí ư ? Hoặc vì hòn núi vách đá địa, thủy, hỏa, phong làm chướng ngại nên chẳng đắc tướng trí ư ? Hoặc vì quá xa quá gần nên chẳng đắc tướng Trí ư ? Hoặc vì quá già quá nhỏ, mù điếc, các căn chẳng đủ nên chẳng đắc tướng Trí ư ?
- Thế Tôn ! Nếu do chẳng giác được sự khác hay chẳng khác của tự tướng cộng tướng nên chẳng đắc tướng Trí thì chẳng nên nói Trí, nên nói Vô Trí, vì có sự "Chẳng đắc" vậy. Nếu do mỗi mỗi tánh tướng của tự tướng cộng tướng tự che khuất nên chẳng đắc tướng trí thì cũng là Vô Trí, chẳng phải trí. Thế Tôn ! Do có Nhĩ-diệm (mẹ của trí) nên trí sanh, chẳng phải vô tánh có thể hợp thành sở tri của nhĩ-diệm mà gọi là trí. Nếu do hòn núi vách đá địa, thủy, hỏa, phong, quá xa, quá gần, quá già, quá nhỏ, mù điếc, các căn chẳng đủ nên chẳng đắc tướng Trí, vậy là 'vô trí', cũng chẳng phải Trí, vì sự "Có Trí" bất khả đắc vậy.
Phật bảo Đại Huệ :
- Chẳng phải nghĩa VÔ TRÍ như ngươi nói mà cho là TRÍ. Ta chẳng nói sự phan duyên ẩn lấp như thế, trí huệ chẳng đắc tướng, là theo phương tiện kiến lập, giác được 'tự tâm hiện lượng' hữu và vô hữu, ngoài tánh phi tánh, biết mà "SỰ" chẳng thể đắc. Vì chẳng đắc nên Trí ở nơi "Nhĩ-diệm" chẳng sanh; nếu tùy thuận ba cửa giải thoát, Trí cũng chẳng thể đắc. Nếu người chẳng vọng tưởng thì có cái Trí liễu tri các tập khí hư ngụy tánh phi tánh từ vô thỉ, cái tri này phàm phu Ngoại-đạo chẳng thể tri. Do đó, phàm phu đối với sở ngoại cảnh, tánh tướng vô tánh, vọng tưởng chẳng dứt, vì chấp trước nhiếp thọ, kiến lập tự tâm hiện lượng nói có tướng ngã và ngã sở, mà chẳng biết tự tâm hiện lượng, nơi trí nhĩ-diệm mà khởi vọng tưởng, vì vọng tưởng chẳng thể quán sát ngoài tánh phi tánh, lại dựa theo đoạn kiến của Ngoại-đạo.
Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết Kệ rằng :
Chẳng trụ sự phan duyên,
Và trí huệ quán sát,
Vô trí tức Chánh-trí,
Vọng cho là Phi-trí.
Nơi tánh tướng chẳng khác,
Nếu chấp theo quán sát,
Những chướng ngại xa gần,
Ấy gọi là Tà-trí.
Do lục căn chẳng đủ,
Nói Trí-huệ chẳng sanh.
Thật thì có nhĩ-diệm,
Ấy cũng gọi tà trí.
- Lại nữa, Đại Huệ ! Phàm phu ngu si chẳng khéo liễu tri, chấp tướng ngoài tánh tự tâm hiện, bị vọng tưởng tà ác hư ngụy từ vô thỉ xoay chuyển. Lúc xoay chuyển thì chẳng thể đạt đến Tự Tông Thông và Thuyết Thông, nên chấp cái thuyết phương tiện, mà chẳng khéo phân biệt tứ-cú của Tự Tông thông và Thuyết Thông trong sạch.
Đại Huệ Bồ-tát bạch Phật rằng :
- Đúng như Phật dạy, cúi xin Thế Tôn vì chúng con phân biệt Thuyết-thông và Tông-thông, khiến con và các Đại Bồ-tát thấu rõ hai thứ thông, cũng khiến phàm phu, Thanh-văn và Duyên-giác đời vị lai chẳng mắc lỗi lầm.
Phật bảo Đại Huệ :
- Lành thay, lành thay ! Hãy chú ý nghe và khéo ghi nhớ, Ta sẽ vì ngươi mà thuyết.
Đại Huệ Bồ-tát bạch Phật rằng :
- Cúi xin thọ giáo.
Phật bảo Đại Huệ :
- Tam thế Như-lai có hai thứ Pháp-thông là Thuyết-thông và Tự-tông-thông. Nói Thuyết-thông là tùy sự thích ứng của tâm chúng sanh mà thuyết mỗi mỗi pháp ghi đủ trong Khế-kinh (khế lý khế cơ), gọi là Thuyết-thông. Nói Tự-tông-thông là nói người tu hành lìa mỗi mỗi vọng tưởng do tự tâm hiện, chẳng đọa kiến chấp nhị biên nhất hay dị, đồng hay chẳng đồng, siêu thoát tất cả tâm, ý, ý thức. Đối với cảnh giới Tự-giác Thánh-trí, lìa kiến chấp nhân duyên và kiến chấp tương ưng do công hạnh tạo tác mà thành. Tất cả Ngoại-đạo, Thanh-văn, Duyên-giác, người đọa nhị biên đều chẳng thể biết, ta gọi là pháp Tự-tông-thông. Đại Huệ ! Tướng Tự-tông-thông và Thuyết-thông này, ngươi và các Đại Bồ-tát cần nên tu học.
Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết Kệ rằng :
Ta nói hai thứ thông,
Tông-thông và Thuyết-thông.
Thuyết-thông dạy sơ cơ,
Tông-thông là giải thoát.
Khi ấy, Đại Huệ Bồ-tát bạch Phật rằng :
- Thế Tôn ! Như Thế Tôn có khi nói rằng : "Đối với mỗi mỗi lập luận của thế gian chớ nên gần gũi học tập. Nếu gần gũi học tập là nhiếp thọ tham dục, chẳng nhiếp thọ Pháp". Tại sao Thế Tôn nói như thế ?
Phật bảo Đại Huệ :
- Mỗi mỗi nghĩa cú ngôn luận của thế gian nhân duyên tích tập, những nhân duyên thí dụ giống như trang nghiêm để dụ dẫn dối gạt những phàm phu ngu si, chẳng thể vào chơn thật tự thông, chẳng biết tất cả pháp vọng tưởng điên đảo. Phàm phu mê hoặc, đọa nơi tà kiến nhị biên, tự phá hoại Chánh-kiến Chánh-pháp, luân hồi lục đạo, chẳng thể giải thoát. Do vọng tưởng chấp trước, chẳng thể giác được 'tự tâm hiện lượng', chẳng lìa ngoài tánh của Tự-tánh. Do đó, mỗi mỗi lập luận của thế gian chẳng thoát khỏi sanh, lão, bệnh, tử, lo, buồn, khổ não, dối gạt và mê hoặc.
- Đại Huệ ! Xưa kia Thích-đề-hoàn-nhân rộng hiểu các Luận, tự tạo Thanh-luận. Bọn Thế-luận kia có một người đệ tử hiện hình tượng rồng, đến Thiên-cung Đế-thích kiến lập tông chỉ Thế-luận và hẹn nhau với Thích-đề-hoàn-nhân rằng : "Nay ta cùng ngươi biện luận, nếu ta thắng thì ta sẽ hoại bánh xe ngàn năm của ngươi, nếu ngươi thắng thì sẽ chém đầu ta để tạ lỗi cho ngươi". Hẹn xong bèn dùng Thế-pháp lật đổ Thanh-luận của Đế-thích, liền phá hủy bánh xe rồi trở về thế gian. Đại Huệ ! Như con rồng là súc sinh cũng có thể dùng mỗi mỗi nghĩa cú, ngôn luận thế gian, nhân duyên thí dụ trang nghiêm để mê hoặc chư Thiên và A-tu-la, khiến dính mắc kiến chấp sanh diệt, huống là loài người ư ?! Do đó, ngôn luận thế gian cần nên xa lìa, vì hay làm nhân sanh quả khổ, chớ nên gần gũi học tập.
- Đại Huệ ! Bọn Thế-luận chỉ nói cảnh giới Thân-giác mà thôi. Đại Huệ ! Có trăm ngàn Thế-luận kia, sau khi Phật diệt độ năm trăm năm, sẽ phá hoại sự kết tập Kinh-điển, do ác giác họ thịnh hành nơi thế gian, có nhiều ác đệ tử ham thọ pháp họ. Đại Huệ ! Họ dùng đủ thứ nghĩa cú nhân duyên thí dụ trang nghiêm để thuyết việc Ngoại-đạo dùng Thế-luận để phá hoại sự kết tập Kinh-điển, vì tự chấp nhân duyên, chẳng có tự thông. Đại Huệ ! Bọn Ngoại-đạo kia chẳng có Tự-thông-luận, lập ra Thế-luận, rộng thuyết vô lượng trăm ngàn sự môn, chẳng thể tự thông, cũng chẳng tự biết ngu si, chấp Thế-luận là Chơn-lý.
Khi ấy Đại Huệ Bồ-tát bạch Phật rằng :
- Thế Tôn ! Nếu Ngoại-đạo sở thuyết mỗi mỗi nghĩa cú nhân duyên thí dụ trang nghiêm của Thế-luận, do tự chấp trước, chẳng có tự thông thì Thế Tôn cũng thuyết Thế-luận vì mỗi mỗi Trời, Người và A-tu-la từ các phương đến tụ hội, Phật cũng rộng thuyết vô lượng nghĩa cú, há cũng chẳng phải không có tự thông ư ! Há cũng lọt vào số ngôn thuyết trí huệ của tất cả Ngoại-đạo ư ?
Phật bảo Đại Huệ :
- Ta chẳng thuyết Thế-luận, chẳng thuyết khứ lai, chỉ thuyết bất khứ bất lai. Đại Huệ ! Lai là tụ họp, Khứ là tan rã, Chẳng Khứ Chẳng Lai là bất sanh bất diệt. Cái nghĩa của Ta thuyết chẳng đọa nơi số vọng tưởng của Thế-luận. Tại sao ? Vì chẳng chấp trước ngoài tánh phi tánh, vọng tưởng nhị biên nơi tự tâm hiện chẳng thể xoay chuyển là cảnh tướng phi tánh. Giác được tự tâm hiện thì vọng tưởng của tự tâm hiện chẳng sanh. Vọng tưởng chẳng sanh thì vào ba cửa giải thoát : Không, Vô Tướng, Vô Tác gọi là giải thoát.
- Đại Huệ ! Ta nhớ xưa kia cư trú một nơi, có Thế-luận Bà-la-môn đến chỗ Ta ở, chẳng màng đến Ta có rảnh hay không, bèn hỏi Ta rằng : "Cù Đàm ! Tất cả pháp là sở tác ư ?" Ta đáp ngay rằng : "Bà-la-môn ! Nói tất cả pháp sở tác là thuộc về Thế-luận thứ nhất". Họ lại hỏi : "Tất cả pháp là phi sở tác ư ?" Ta cũng đáp rằng : "Tất cả pháp phi sở tác thuộc Thế-luận thứ hai". Họ hỏi tiếp : "Tất cả pháp thường ư ? Tất cả pháp vô thường ư ? Tất cả pháp sanh ư ? Tất cả pháp bất sanh ư ?" Ta liền đáp : "Ấy là Thế-luận từ thứ ba đến thứ sáu".
- Đại Huệ ! Họ lại hỏi rằng : "Tất cả pháp là nhất ư ? Tất cả pháp là dị ư ? Tất cả pháp đồng ư ? Tất cả pháp chẳng đồng ư ? Tất cả pháp do mỗi mỗi thọ sanh mà hiện ư ?". Ta trọn đáp rằng : "Ấy là Thế-luận từ thứ bảy đến thứ mười một". Đại Huệ ! Họ lại hỏi : "Tất cả pháp vô ký ư ? Tất cả là ký ư ? Hữu ngã ư ? Vô ngã ư ? Có đời này ư ? Chẳng đời này ư ? Có đời khác ư ? Chẳng đời khác ư ? Có giải thoát ư ? Không giải thoát ư ? Tất cả là sát-na ư ? Tất cả chẳng là sát-na ư ? Là hư không ư ? Là chẳng phải số diệt ư ? Là Niết-bàn ư ? Là do Cù-đàm tác ư ? Chẳng phải tác ư ? Có Thân-trung-ấm ư ? Chẳng Thân-trung-ấm ư ?"
- Đại Huệ ! Ta đáp rằng : "Bà-la-môn ! Những câu hỏi như thế đều là Thế-luận của ngươi, chẳng phải sở thuyết của Ta. Ta chỉ thuyết mỗi mỗi ác nghiệp tập khí vọng tưởng hư ngụy từ vô thỉ là nhân của tam Giới, những người chẳng thể giác tri 'tự tâm hiện lượng' mà sanh vọng tưởng phan duyên ngoài Tự-tánh, như pháp của Ngoại-đạo nói : "Do Ngã, Căn, Cảnh ba duyên hoà hợp mà có cái biết sanh khởi". Ta thì chẳng như thế. Bà-la-môn ! Ta chẳng thuyết Nhân, chẳng thuyết Vô Nhân, chỉ thuyết cái tánh vọng tưởng năng nhiếp sở nhiếp giả lập pháp duyên khởi, chẳng phải ngươi và những người chấp ngã tương tục có thể biết được".
- Đại Huệ ! Nói Niết-bàn, Hư-không và Tịch-diệt chẳng phải có ba thứ, chỉ là số lượng có ba mà thôi.
- Lại nữa, Đại Huệ ! Khi ấy Thế-luận Bà-la-môn lại hỏi Ta rằng : "Do si ái nghiệp làm nhân mà có tam Giới ư ? Hay là vô nhân ư ?" Ta đáp rằng : "Hai thứ này cũng là Thế-luận thôi". Họ lại hỏi : "Tất cả tánh đều vào tự tướng cộng tướng ư ?" Ta lại đáp : "Đây là Thế-luận, Bà-la-môn ! Nói tóm lại, từ những câu hỏi của ngươi cho đến dòng suối ý thức vọng chấp ngoại trần, tất cả đều là Thế-luận."
- Lại nữa, Đại Huệ ! Khi ấy Thế-luận Bà-la-môn lại hỏi Ta rằng : "Mỗi mỗi nghĩa cú nhân duyên thí dụ trang nghiêm là tông chỉ của tất cả Ngoại-đạo, đều thuộc Thế-luận, vậy còn có pháp nào chẳng phải Thế-luận ư ?". Ta đáp rằng : "Bà-la-môn ! Có, mà chẳng phải ngươi có, phi tác phi tông, phi thuyết phi bất thuyết, phi bất nhân duyên thí dụ trang nghiêm". Bà-la-môn hỏi : "Thế nào là phi Thế-luận, phi phi tông chỉ phi phi thuyết ?" Ta đáp rằng : "Bà-la-môn ! Có phi Thế-luận mà Ngoại-đạo các ngươi chẳng thể biết, vì vọng tưởng chẳng thật, hư ngụy chấp trước nơi ngoài thành. Nói vọng tưởng chẳng sanh, nếu giác liễu pháp hữu vô và tự tâm hiện lượng thì vọng tưởng chẳng sanh, chẳng nhiễm ngoại trần, dứt hẳn vọng tưởng, ấy gọi là Phi Thế-luận. Đây là pháp tu chẳng phải ngươi có vậy".
Khi ấy, Bà-la-môn lại lược thuyết sự nhận thức của họ, hoặc khứ hoặc lai, hoặc sanh hoặc tử, hoặc vui hoặc khổ, hoặc chìm hoặc nổi, hoặc ẩn hoặc hiện, hoặc hòa hợp hoặc tương tục, hoặc ái hoặc nhân ái, chấp trước đủ thứ tướng. Ta nói : "Bà-la-môn ! So đo như thế đều là Thế-luận của bọn ngươi chẳng phải Ta có".
- Đại Huệ ! Thế-luận Bà-la-môn hỏi như thế, Ta đáp như thế, họ liền im lặng chẳng từ giã mà lui ra, lại còn suy tư chỗ tự thông mà nghĩ rằng : "Sa-môn Thích-tử vượt ra ngoài tướng thông, nói Vô Sanh, Vô Tướng, Vô Nhân, giác được tướng hiện của tự vọng tưởng thì vọng tưởng chẳng sanh". Đại Huệ ! Đây tức là chỗ ngươi hỏi Ta : "Tại sao nói gần gũi Thế-luận đủ thứ biện luận là nhiếp thọ tham dục, chẳng nhiếp thọ Pháp ?"
Đại Huệ Bồ-tát bạch Phật rằng :
- Thế Tôn ! Nhiếp thọ tham dục và pháp có nghĩa cú gì ?
Phật bảo Đại Huệ :
- Lành thay, lành thay ! Ngươi khéo vì chúng sanh đời vị lai tư duy xin hỏi nghĩa cú như thế. Ta sẽ vì người mà thuyết, hãy chú ý nghe và khéo ghi nhớ.
Đại Huệ Bồ-tát bạch Phật rằng :
- Cúi xin thọ giáo.
Phật bảo Đại Huệ :
- Đối với nghĩa Tham, có thủ có xả, hoặc ham tiếp xúc hoặc ham mùi vị, dính mắc ngoại trần, đọa tà kiến nhị biên, do đó luân hồi tương tục, lại sanh ngũ Ấm, sanh, lão, bệnh, tử, lo, buồn, khổ não, các thứ nghiệp khổ đều từ tham ái sanh khởi, đều do gần gũi nhiễm tập Thế-luận, thành kẻ Thế-luận. Ta và chư Phật nói là Tham, ấy gọi nhiếp thọ tham dục mà chẳng nhiếp thọ Pháp.
- Đại Huệ ! Thế nào là Nhiếp Thọ Pháp ? là khéo thấu rõ 'tự tâm hiện lượng', thấy tướng 'nhân vô Ngã' và 'pháp vô Ngã' thì vọng tưởng chẳng sanh, khéo biết từng bậc tiến lên chư Địa của Bồ-tát, lìa tâm, ý, ý thức, được tất cả chư Phật trí huệ quán đảnh, trọn vẹn nhiếp thọ Thập Vô Tận Cú, nơi tất cả pháp cũng chẳng có mở mang tự tại, ấy gọi là 'Pháp', nghĩa là chẳng đọa tất cả kiến chấp, tất cả hư ngụy, tất cả vọng tưởng, tất cả tánh tướng, tất cả nhị biên, v.v... Đại Huệ ! Có nhiều hạng si mê Ngoại-đạo nơi nhị biên, hoặc thường hoặc đoạn, chẳng phải người có trí huệ. Chấp thọ Vô Nhân Luận thì sanh khởi thường kiến, chấp ngoại nhân hoại, nhân duyên phi tánh thì sanh khởi đoạn kiến. Đại Huệ ! Ta chẳng thấy sanh, trụ, diệt, nên nói là Pháp. Đại Huệ ! Ấy gọi là tham dục và pháp, ngươi và các Đại Bồ-tát cần nên tu học.
Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết Kệ rằng :
Tất cả Thế-gian-luận
Là Ngoại-đạo vọng thuyết.
Vọng thấy tác, sở tác,
Thuyết họ chẳng tự thông.
Duy nhất Tự-tông Ta,
Lìa nơi tác, sở tác.
Vì các Đệ-tử thuyết,
Xa lìa những Thế-luận.
Tâm Lượng chẳng thể thấy,
Nhiếp, sở nhiếp phi tánh.
Chẳng quán sát hai tâm,
Đoạn thường thảy đều lìa.
Ngoại-đạo tâm lưu chuyển.
Ta gọi là Thế-luận.
Người vọng tưởng chẳng chuyển,
Người ấy thấy tự tâm,
Lai thì có sự sanh,
Khứ thì sự chẳng hiện.
Thấu rõ việc khứ lai,
Thì vọng tưởng chẳng khởi.
Hữu thường và vô thường,
Năng tác và sở tác,
Đời này hay đời sau,
Đều là Thế-luận thông.
Khi ấy, Đại Huệ Bồ-tát bạch Phật rằng :
- Thế Tôn ! Phật nói Niết-bàn, pháp nào gọi là Niết-bàn ? mà các Ngoại-đạo đối với pháp Niết-bàn mỗi mỗi sanh khởi vọng tưởng khác nhau ?
Phật bảo Đại Huệ :
- Hãy chú ý nghe và khéo ghi nhớ, Ta sẽ vì ngươi mà thuyết.
Đại Huệ Bồ-tát bạch Phật rằng :
- Cúi xin thọ giáo.
Phật bảo Đại Huệ :
- Như vọng tưởng Niết-bàn của các Ngoại-đạo, vọng tưởng của họ chẳng tùy thuận Niết-bàn. Hoặc có Ngoại-đạo diệt Ấm, Giới, Nhập; lìa cảnh giới tham dục, thấy pháp vô thường, tâm và tâm pháp chẳng sanh, chẳng ghi nhớ cảnh giới quá khứ, vị lai, hiện tại, thọ Ấm hết như ngọn đèn tắt, như chủng tử hoại, vọng tưởng chẳng sanh, nghĩ những cảnh giới này cho là Niết-bàn. Đại Huệ ! Họ chẳng do hoại tánh kiến, gọi là Niết-bàn.
- Đại Huệ ! Hoặc có Ngoại-đạo cho "từ phương này đến phương kia" gọi là giải thoát, thấy cảnh giới của tưởng Ấm diệt cũng như gió ngưng; hoặc thấy năng giác sở giác đoạn diệt, gọi là giải thoát. Hoặc thấy mỗi mỗi tướng của tư tưởng là cái nhân sanh ra khổ, qua suy nghĩ rồi, chẳng khéo giác tri tự tâm hiện lượng, kinh sợ nơi tưởng mà thấy Vô Sanh, sanh tâm ưa thích, tưởng là Niết-bàn. Hoặc có tưởng mà thấy Vô Sanh, sanh tâm ưa thích, tưởng là Niết-bàn. Hoặc có Ngoại-đạo, biết các pháp trong ngoài tự tướng cộng tướng nơi quá khứ, hiện tại, vị lai có tánh chẳng hoại, cho là Niết-bàn. Hoặc đối với ngã, nhơn, chúng sanh, thọ mạng tất cả pháp ngoại, tưởng là Niết-bàn. Hoặc có Ngoại-đạo, trí huệ bị ác kiến thiêu đốt chấp có ngã, kiến Tự-tánh làm căn bản, thấy Tự-tánh và sĩ phu, giữa hai có chút ngăn cách, nói Thần-ngã của sĩ phu hay sanh Tự-tánh, vì do sĩ phu sanh ra, gọi là Tự-tánh, ví như Minh-sơ(1), Cầu-na(2) là y theo Thần-ngã ban sơ sanh giác. Cầu-na dụ cho vi trần, cho Cầu-na là tác giả, nói từ vi trần sanh tứ Đại, cũng như từ sĩ phu sanh Tự-tánh, rồi chấp có Thần-ngã chấp cõi mười phương, cho là Niết-bàn.
(1) MINH SƠ : Thuật ngữ, Số-luận-sư lập hai mươi lăm đế, đế thứ nhất là Minh-đế, vì Minh-đế là ban sơ của các pháp, nên gọi là Minh-sơ.
(2) CẦU NA : Dịch là y-chỉ, là thật thể của tứ Đại mà sanh ra các đức dụng của sắc, thanh, hương, vị, xúc v.v... Còn ở Thập Cú Nghĩa Luận thì nói gồm hai mươi bốn đức. Ngoài ra, Số Luận nói gồm có ba đức : Vui, buồn và ám muội.
- Hoặc có Ngoại-đạo nói hết phước và phi phước, hoặc nói các phiền não chẳng do tu trí huệ mà tự dứt, hoặc thấy Cõi Trời Tự Tại là kẻ chơn thật tạo tác sanh tử, cho là Niết-bàn. Hoặc nói chúng sanh ở nơi này chết thọ sanh nơi khác, lần lượt luân hồi từ tám ngàn kiếp đến nay, vô nhân tự có, do đó chấp trước sanh tử chẳng có nhân nào khác, rồi chấp trước vô nhân, tưởng là Niết-bàn. Hoặc nói từ Tự-tánh sanh tứ đại, tứ đại sanh ý, ý sanh trí, trí sanh ngũ phần, ngũ phần sanh ngũ tri căn, ngũ tri căn sanh ngũ nghiệp căn, ngũ nghiệp căn sanh ngũ đại, gọi là hai mươi lăm Minh-đế của Tự-tánh, hay sanh các pháp rồi trở về Tự-tánh thì lìa tất cả sanh tử. Chấp Minh-đế này cho là đắc đạo Chơn-đế, tưởng là Niết-bàn.
- Hoặc thấy tướng nhất dị, đồng chẳng đồng hòa hợp sanh khởi công đức (như vi trần sanh khởi thế giới, vi trần là năng tác, thế giới là sở tác, tức là công đức), cho là Niết-bàn. Hoặc thấy vạn vật như cây gai nhọn, như sự lộng lẫy của con Công và đủ thứ bửu vật, chẳng có kẻ tác, vô nhân tự có, cho là Niết-bàn.
- Đại Huệ ! Hoặc có hai mươi lăm Minh-đế là chơn thật và cho Lục Đức Luận (1. Thật, 2. Đức, 3. Nghiệp, 4. Tứ Đại, 5. Hòa hợp, 6. Đồng dị) là nhân sanh ra các pháp, nói giữ được hai pháp này hộ trì quốc độ chúng sanh, khiến được an lạc tức là Niết-bàn. Hoặc cho thời gian là kẻ tác tạo ra thời tiết thế gian, kẻ giác như thế, tưởng là Niết-bàn. Hoặc thấy tánh, hoặc thấy phi tánh, biết là tánh phi tánh, thấy có giác này với Niết-bàn sai biệt mà chẳng khác, tưởng là Niết-bàn. Đủ thứ vọng tưởng so đo chấp trước của Ngoại-đạo sở thuyết, nơi lý chẳng thành, bậc Trí nên bỏ những thuyết này vậy.
- Đại Huệ ! Niết-bàn vọng tưởng của Ngoại-đạo, tất cả đều đoạn kiến chấp nhị biên mà họ cho là Niết-bàn. Mỗi mỗi Niết-bàn của Ngoại-đạo họ tự lập luận, bậc Trí-huệ quán sát vọng tưởng của họ, tâm ý khứ lai trôi giạt lưu động, hoặc sanh hoặc diệt, lập như vô sở lập, thật thì chẳng có kẻ đắc Niết-bàn.
- Đại Huệ ! Pháp Niết-bàn của Ta thuyết là khéo giác 'tự tâm hiện lượng', chẳng chấp ngoài tánh, lìa nơi tứ Cú, thấy chỗ như thật, chẳng đọa tự tâm hiện và vọng tưởng nhị biên, năng nhiếp sở nhiếp bất khả đắc, tất cả đo lường chẳng thấy sở thành, đối với vọng chấp chơn thật của phàm phu chẳng nên nhiếp thọ. Người xả bỏ rồi thì đắc pháp Tự-giác Thánh-trí, biết hai Vô Ngã, lìa hai phiền não, trừ sạch hai chướng, lìa hẳn hai sanh tử, dần dần lên chư Địa, đến địa vị Như-lai, các Tam-muội thâm sâu, lìa tâm, ý, ý thức, đều như bóng huyễn, gọi là Niết-bàn. Đại Huệ ! Ngươi và các Đại Bồ-tát cần nên tu học, chóng xa lìa tất cả kiến chấp Niết-bàn của Ngoại-đạo.
Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết Kệ rằng :
Niết-bàn của Ngoại-đạo,
Mỗi mỗi sanh vọng tưởng.
Vọng tưởng từ tâm khởi,
Chẳng cách nào giải thoát.
Không dây mà tự trói,
Xa lìa phương tiện khéo.
Dù tưởng là giải thoát,
Thật chẳng thể giải thoát.
Tướng thông của Ngoại-đạo,
Nhiều loại trí khác nhau.
Vì ngu si vọng tưởng,
Giải thoát chẳng có phần.
Tất cả Ngoại-đạo kia,
Vọng thấy tác, sở tác.
Chấp hữu, vô lập luận,
Thảy đều chẳng giải thoát.
Phàm phu ham vọng tưởng,
Chẳng nghe Pháp chơn thật.
Chơn thật diệt nhân khổ,
Tam Giới gồm ba khổ :
Khổ khổ và hoại khổ,
Hành tam ác đạo khổ.
Ví như tượng trong gương,
Dù hiện mà chẳng thật.
Vọng tưởng nơi tâm gương,
Phàm phu sanh nhị kiến.
Chẳng biết tâm và duyên,
Sanh vọng tưởng nhị biên.
Liễu Tâm và Cảnh-giới,
Thì vọng tưởng chẳng sanh.
Tâm-thể tức vạn pháp,
Sự hiện mà chẳng hiện.
Xa lìa tướng, sở tướng
Như phàm phu phân biệt.
Vọng tưởng sanh tam Giới,
Vọng hiện đủ thứ tướng.
Đều chẳng có nghĩa thật,
Mà kẻ ngu chẳng biết.
Chư Kinh nói vọng tưởng,
Chẳng ra ngoài giả danh.
Nếu lìa nơi ngôn thuyết,
Phật nói Vô-sở-thuyết.