18:09 EDT Thứ sáu, 04/10/2024

Giới Thiệu

Tổ Sư Thiền

        Lúc sanh tiền có người hỏi thầy Duy Lực rằng : - Thưa thầy, tôi theo thầy nhiều năm nhưng vẫn chưa lãnh hội được Tổ sư thiền là cái gì ? Ngài đáp : Nếu mà là cái gì thì chẳng phải Tổ sư thiền  ! - ??? Thật là khó phải không các bạn ! bởi Thiền là vô ngôn...

Danh mục chính

Liên Kết Trang

HUE NANG
TS DUC SON
TS NGUYET KHE

Trang nhất » Tông Phong Tàng Thư » Luận, Giảng » Bữu Tạng Luận

Bửu tạng luận - phần III

Thứ bảy - 30/03/2013 04:22 Xem: 1385
Phẩm III Bản tế hư huyền
PHẨM III BẢN TẾ HƯ HUYỀN

(Bản thể của Tự-tánh, vốn trống rỗng nhiệm mầu, nên gọi Bản-tế hư huyền).

Nói Bản-tế tức là cái Tánh Niết-bàn vô ngại của tất cả chúng sanh. Sao bỗng có vọng tâm và đủ thứ điên đảo như thế này ? Chỉ vì một niệm mê hoặc, niệm mê này từ "Một" sanh khởi, "Một" từ bất tư nghì sanh khởi, nói bất tư nghì tức là chẳng có chỗ khởi. Nên Kinh nói "Sự bắt đầu của Đạo là sanh ra một". "Một" là vô-vi, từ một sanh ra hai, "Hai" là vọng tâm, vì có tâm biết một thì có năng biết sở biết, nên chia thành hai, từ hai sanh ra âm-dương, nói âm-dương cũng là động-tịnh vậy. Dương là thanh (trong), Âm là trược (đục), thanh khí trống rỗng bên trong là tâm, trược khí kết tụ bên ngoài là sắc, thành có hai pháp Tâm và Sắc. Tâm tương ưng nơi dương, dương tương ưng nơi động; sắc tương ưng nơi âm, âm tương ưng nơi tịnh, tịnh với huyền tẩn (loại cái nhiệm mầu, chẳng có thật chất) thông nhau nên có Trời-đất giao hợp. Tất cả chúng sanh đều bẩm thụ hư khí của âm dương mà sanh. Cho nên từ một sanh hai, từ hai sanh ba, từ ba sanh vạn pháp vậy. Đã duyên theo vô-vi mà có tâm, lại duyên theo có tâm mà có sắc, nên Kinh nói "Tâm sanh muôn niệm, Sắc khởi muôn loài", đủ thứ tâm-sắc hòa hợp thành nghiệp nhân, bèn thành hạt giống của Tam-giới.

Tại sao có Tam-giới ? Vì có tâm chấp thật làm căn bản, cái chấp tâm này mê muội Chơn-nhất thì có ác trược sanh ra vọng khí, vọng khí trong lặng thành Vô-sắc-giới, cũng gọi là tâm; trược khí hiện hành thành Sắc-giới, cũng gọi là thân, cặn bã của ác trược xao động thành Dục-giới cũng gọi là cảnh trần vậy. Nên Kinh nói "Tam-giới hư vọng chẳng thật, chỉ do một niệm vọng tâm biến hóa". Bên trong có "Một" sanh khởi tức bên ngoài có vô-vi; bên trong có "Hai" sanh khởi tức bên ngoài có hữu-vi; bên trong có "Ba" sanh khởi tức bên ngoài có Tam-giới, trong và ngoài đã tương ứng với nhau, bèn sanh đủ thứ chư pháp và Hằng-sa phiền não. Hễ "Một" chẳng sanh thì chẳng có vô-vi, nếu có người nói ta chứng vô-vi, ấy là hư vọng; hễ "Hai" chẳng sanh thì chẳng có hữu-vi, nếu có người nói ta chứng hữu vi ấy là hư vọng; hễ "Ba" chẳng sanh thì chẳng có Tam-giới, nếu có người nói thật có Tam-giới ấy là hư vọng. Nên Kinh nói "Có hữu tức có khổ, chẳng hữu tức Niết-bàn", bậc Thanh-văn chứng quả vô-vi còn là hữu dư, cho đến Thập-địa Bồ-tát vẫn còn sự chướng ngại vi tế của căn bản vô minh, nên nói "Một" là vô-vi, "Hai" là hữu-vi, "Ba" là Tam-giới vậy.

Vô-vi có hai : Một là chứng diệt vô-vi, hai là tánh vốn vô-vi. Nói chứng diệt vô-vi, ấy là những bậc Thánh tu Đạo đoạn Chướng, chứng được bản thể Như-như, nên Kinh nói "Tất cả Hiền-thánh đều vì pháp vô-vi mà có sai biệt". Nói tánh vốn vô-vi, ấy là căn bản của Pháp-tánh, vốn như vậy, phi tu phi chứng, chẳng do người làm nên, chẳng do pháp khế hợp, người và pháp vốn không, bản thể của Chơn-đế trong sạch, nên Kinh nói "Diệu-lý của thật tướng chẳng hữu-vi, chẳng vô-vi, chẳng bờ bên đây, chẳng bờ bên kia, cũng chẳng ở giữa".

Vì chẳng hữu-vi nên chẳng thể tu học, chẳng vô-vi nên chẳng thể chứng Diệt, nếu có tu có chứng, tức là bản tánh chẳng phải vốn vô-vi vậy. Nên Kinh nói "Tất cả lấy chẳng sanh làm Tông", Tông nếu chẳng sanh tức chẳng vô sanh, vô sanh chẳng sanh thì chẳng thể chứng lấy. Tại sao ? Hễ có chứng tức có sanh, hễ chẳng chứng tức vô sanh, cũng là thuận theo Tự-tánh vậy.

Nói chẳng sanh tức là Bản-tế, chẳng xuất chẳng nhập, cũng như hư-không, chẳng vật nào để thí dụ, chỉ vì tất cả pháp hữu-vi hư vọng chẳng thật, nhờ nhân duyên giảlập với nhau mà có sanh diệt, nếu truy cứu cùng tận nguồn gốc thì cuối cùng trở về Thực-tế. Nhưng tất cả chúng sanh vì thất lạc căn bản, hướng ngoại tìm cầu, cam chịu khổ nhọc, tu tập nhiều kiếp mà chẳng ngộ Chơn-tánh, cho nên hễ lấy gốc tìm ngọn thì ngọn vọng chẳng chơn, lấy ngọn tìm gốc thì gốc hư chẳng thật, gốc tức chẳng cần cầu. Tại sao ? Vì gốc chẳng cầu nơi gốc, cũng như vàng chẳng cầu nơi vàng vậy. Ngọn tức chẳng cần tu. Tại sao ? Vì vọng chẳng cầu nơi vọng, cũng như nắm đất chẳng thể thành vàng. Pháp của thân tâm hư vọng chẳng thật, mà người thế gian phần nhiều khổ tu thân tâm để tìm đạo, cũng như nắm đất để tìm vàng, nếu cho thân tâm tức là đạo thì tại sao bậc Thánh nói lìa thân tâm ? Nên biết chẳng phải Đạo. Bản-thể chân thật cũng chẳng cần tu. Tại sao ? Vì Tự-tánh chẳng có nhị pháp.

Bậc Thánh thị hiện sống mà chẳng phải có, chết mà chẳng phải không, chẳng có vọng tâm lấy bỏ, dù trải qua muôn ngàn sanh tử chỉ tùy theo Pháp-tánh tự nhiên mà chẳng nổi ý phân biệt, khi ấy chẳng có ngã và vô ngã; phàm phu vì có vọng tưởng, trong tâm mê hoặc, bèn sanh đủ thứ tri kiến, vì chẳng chơn thật nên Tự-tánh chẳng được sáng tỏ.

Bản-tế của Tự-tánh trong sạch, vi diệu thâm sâu, vốn chẳng cáu bẩn, các bậc Thánh-hiền đủ thứ ngôn luận đều là lời nói tùy cơ giáo hóa. Thật ra, nói chơn thật hay chẳng chơn thật, giáo hóa hay chẳng giáo hóa, chỉ là tùy nghi giả lập. Bản-tế vốn là vô danh. Bản-tế vô danh mà gán tên nơi vô danh, bản-tế vô tướng mà gán tên nơi vô tướng, danh tướng đã lập thì vọng tưởng liền sanh, từ đó Chơn-nhất chôn vùi, Đại-đạo ẩn mất.

Bản-tế của vô danh cùng khắp tất cả, chẳng có tên gọi, siêu việt số lượng, chẳng một chẳng hai, nên Kinh nói "Sum la cập vạn tượng, nhất Pháp chi sở Ấn", Ấn tức là Bản-tế, nhưng nghĩa lý của Bản-tế chẳng mình chẳng người, chẳng một chẳng nhiều, bao hàm Nhất-khí (Tự-tánh), gồm đủ vạn hữu. Nếu có người Tự-tánh trong sạch, hàm Nhất (ôm theo Tự-tánh) mà sanh, chẳng có vọng tưởng tức là bậc Thánh. Nếu tự mê hoặc, loạn khởi vọng tưởng tức là phàm phu. Kỳ thật thì chẳng có bậc Thánh cũng chẳng có phàm phu, Thánh-phàm chẳng phải khác nhau nên Kinh nói "Phật-tánh bình đẳng, mênh mông khó lường, Thánh-phàm bất nhị, tất cả viên mãn", cây, cỏ, muỗi, kiến đều sẵn đầy đủ, cho đến một vi trần, một sợi tóc đều hàm Nhất mà có, nên Kinh nói "Hễ liễu tri Nhấtthì muôn việc đều xong". Bởi vì tất cả chúng sanh đều từ Nhất-thừa mà sanh, nên gọi là Phật-thừa là Nhất-thừa, kẻ ngộ tức Nhất, kẻ mê tức dị. Kinh nói "Tiền niệm là phàm, hậu niệm là Thánh", lại nói "Nhất-niệm biết tất cả pháp", cho nên Nhất là tất cả, tất cả là Nhất, do công dụng của Nhất-pháp mà thành tựu vạn tượng.

Nên Kinh nói "Tất cả nếu có, có tâm là mê; tất cả nếu không, không tâm thì khắp mười phương". Vậy thì Chơn-nhất có muôn ngàn sai biệt, muôn ngàn sai biệt tức là Chơn-nhất. Ví như biển nổi ngàn sóng, ngàn sóng tức biển, nên tất cả đều nhất, chẳng có khác biệt. Nhất là đối với dị (khác biệt) mà nói, dị đã phi dị, Nhất cũng phinhất, phi nhất bất nhất, giả lập Chơn-nhất, Chơn-nhất thì phải lập văn tự lời nói có thể diễn tả. Do đó, phi nhất thấy Nhất, hễ có sở thấy, tức là có nhị, chẳng được gọi là Chơn-nhất, cũng chẳng gọi là Tri-nhất. Nếu dùng Nhất để tri nhất, tức gọi là nhị, chẳng gọi là Nhất; nếu có sở tri tất có vô tri, có tri và bất tri, tức có nhị vậy. Cho nên Đại-trí vô tri mà vô sở bất tri, mãnh liệt thường tri, thường tri vô tri giả danh gọi là tri, phi ngã và ngã sở, phi Tâm phi Ý.

Pháp nếu hữu-vi tức có sở tri, pháp nếu vô-vi, cũng như hư-không, chẳng có bờ bến thì chẳng có tri và bất tri. Bậc Thánh sở dĩ nói Tri là vì có Tâm có Số, có làm có pháp, nên có thể tri; sở dĩ nói Vô-tri là vì chẳng tâm chẳng số, chẳng làm chẳng pháp, nên chẳng thể tri. Nếu dùng hữu tri để tri nơi tri thì chẳng có chỗ đúng, ví như có người suốt ngày nói không, ấy chỉ là người nói, chớ chẳng phải "Không" nói; dùng cái tri để tri vô-tri cũng vậy. Bậc Thánh sở dĩ hoặc nói ta tri là vì đối với sự mê, để phá trừ nghi ngờ của những kẻ có bệnh chấp thật. Kỳ thật, Tri và Vô-tri chẳng phải là hai. Sở dĩ nói vô-tri, vì phàm phu chẳng liễu đạt Chơn-nhất, chấp ngã và ngã sở, vọng tâm so đo có năng tri sở tri, nên nói vô tri vô phân biệt. Phàm phu nghe xong liền học vô-tri, như người ngu muội, chẳng thể phân biệt, nên bậc Thánh vì những kẻ hư vọng mà nói Như-lai liễu liễu tri kiến, chẳng phải bất tri. Phàm phu nghe xong liền học hữu-tri, hễ có hữu tri thì bị hữu tri chướng ngại, ấy là hư tri, cũng gọi là vọng tri, sự tri như thế lại càng xa với Đạo vậy. Nên Kinh nói "Chúng sanh thân cận Ác-tri-thức, sanh trưởng ác tri kiến".

Tại sao ? Những người Ngoại-đạo có Thần-thông, biết được quá khứ vị lai của thân tâm; vì thân tâm chẳng trong sạch nên chẳng ra khỏi sanh tử. Những kẻ học vô tri, đều bỏ hữu tri học vô tri, mà chẳng biết vô tri tức là tri, còn những kẻ bỏ vô tri học hữu tri, chẳng biết có tri tức có giác, có giác thì tâm ý sanh khởi muôn ngàn tư tưởng, chẳng thể lìa khổ. Hai thứ kiến chấp tri và vô tri đều chẳng thể khế hợp lý như-như, nên chẳng thể đến chỗ chơn thật. Chỗ chơn thật vốn lìa hữu-tri và vô-tri, vì siêu việt tất cả số lượng vậy.

Hễ thấy thì có phương, nghe thì có sở, giác thì có tâm, tri thì có lượng (số lượng), nếu liễu đạt Bản-tế vốn chẳng phương sở, chẳng tâm chẳng lượng, thì chẳng có kiến văn giác tri. Chơn-nhất chẳng có hai, mà hiện ra sự bất đồng, cũng như có người niệm Phật thì Phật hiện, niệm Tăng thì Tăng hiện, nhưng sự thật thì phi Phật phi phi Phật mà hiện nơi Phật, cho đến phi Tăng phi phi Tăng mà hiện nơi Tăng. Tại sao ? Do người niệm có tâm hy vọng được hiện thì bất giác Tự-tâm hiện ra. Những việc Thánh-hiền do nhân duyên sanh khởi, luôn luôn tùy theo ngoại cảnh mà có sai biệt, kỳ thật chẳng phải Phật với Tăng có khác.

Nên Kinh nói "Kẻ thấy Sắc-thân và Quốc-độ của chư Phật có số lượng, mà vô ngại huệ của Tự-tánh thì chẳng có số lượng". Ví như người làm ảo thuật nơi hư-không, tùy sức ảo thuật hóa ra đủ thứ hình tượng, những kẻ ngu muội cho là nơi hư-không đã có việc này, kẻ niệm Phật, Tăng cũng vậy, ở nơi Pháp-không, nhờ sức Tâm-niệm hóa ra đủ thứ sắc tướng, mà theo đó vọng khởi kiến chấp.

Nên Kinh nói "Tâm như người ảo thuật, Ýnhư người phụ tá, ngũ Thức là bạn bè, Vọng-tưởng là người xem". Ví như có người tự làm khuôn hình nơi lò đúc, vuông tròn lớn nhỏ tùy theo ý muốn, vàng chảy vào khuôn làm ra hình tượng, hình tượng tùy theo ý muốn mà thành, kỳ thực bản thể của vàng ròng phi tượng phi phi tượng mà hiện nơi tượng, kẻ niệm PhậtniệmTăng cũng vậy.

Người đúc vàng dụ cho Đại-trí của Như-lai; khuôn hình dụ cho Pháp-thân của chúng sanh, vì trong Tâm mong cầu thấy Phật, nên nhờ nhân duyên niệm Phật, được hiện ra đủ thứ thân tướng, mà chẳng biết Pháp-thân, phi tướng phi phi tướng. Sao gọi phi tướng ? Vốn chẳng có tướng nhất định vậy. Sao gọi phi phi tướng ? Vì có chư tướng duyên khởi. Pháp-thân phi hiện phi phi hiện, lìa tánh và vô tánh, phi hữu phi vô, chẳng tâm chẳng ý, chẳng thể so đo suy lường. Phàm phu tùy theo vọng tưởng cho là thấy Phật, xưa nay chấp thật ngoài Tâm có Phật, chẳng biết do tự Tâm vọng hiện mà có; hoặc nói ngoài Tâm chẳng Phật, ấy là phỉ báng Chánh-pháp.

Nên Kinh nói : "Cảnh giới của bậc Thánh lìa phi hữu phi vô, chẳng thể đo lường", nếu chấp thật có thật không, tức lọt vào nhị biên, cũng là tà vọng. Tại sao ? Vì vọng sanh nhị kiến, sai trái với Chân-lý vậy. Ví như có người ở trong kho chứa đồ vàng, chỉ thấy nơi vàng, chẳng thấy các tướng, dù thấy các tướng, cũng chỉ là vàng. Chẳng bị các tướng mê hoặc thì lìa phân biệt, thường thấy bản thể của vàng nên chẳng hư vọng, dụ cho bậc Thánh thường quán Chơn-nhất, chẳng thấy các tướng, dù thấy các tướng cũng là Chơn-nhất, xa lìa vọng tưởng, chẳng có điên đảo, trụ nơi thật tế, nên gọi bậc Thánh. Còn như có người ở trong kho chứa đồ vàng, thường thấy các tướng, chẳng thấy bản thể là vàng, vọng khởi đủ thứ tri kiến, phân biệt tốt xấu, làm mất tánh vàng, bèn có tranh luận, dụ cho phàm phu, thường thấy sắc tướng, nam nữ xấu đẹp, đủ thứ sai biệt, mê muội bản tánh, chấp trước Tâm-tướng, vọng sanh yêu ghét lấy bỏ, kiến chấp điên đảo, trôi lăn trong vòng sanh tử, thọ thân này thân kia, vọng tưởng sum la, che khuất Chơn-nhất. Cho nên, những hành giả có Đạo, thông đạt Phật-pháp, xa lìa chư kiến, mới tương ưng với Đạo, khế hợp Chơn-nhất.

Chơn-nhất khó tả, phải nhờ lời thí dụ để tỏ bày, kỳ thật lý cứu cánh của Đạo chẳng phải lời nói có thể diễn đạt được. Cũng như cho nhãn là nhãn thì sanh nhãn đảo (điên đảo), cho nhãn là vô nhãn thì sanh vô nhãn đảo, ấy đều là vọng tưởng. Nếu chấp có nhãn tức mê nơi vô nhãn, do chấp có nhãn thì diệu kiến chẳng thông, nên Kinh nói "Vô nhãn, vô sắc"; nếu chấp vô nhãn tức mê nơi nhãn, do chấp vô nhãn thì lạc mất Chơn-nhãn, như người mù chẳng phân biệt màu sắc; nên Kinh nói "Ví như những người lục Căn bị tàn phế thì chẳng thể lãnh thọ ngũ dục". Các bậc Thanh-văn cũng vậy. Chỉ có Như-lai được chơn Thiên-nhãn, thường ở nơi Chánh-định, thấy khắp tất cả Quốc-độ Phật, vì chẳng nhị tướng, nên chẳng đồng với cái sở kiến của phàm phu; vì thấy khắp nên khác với cái vô sở kiến của Thanh-văn.

Nói "Nhị kiến" ấy là vọng kiến hữu vô, nhưng bản thể của Chơn-nhất chẳng phải hữu vô, chỉ do vọng tưởng kiến lập mà có hữu vô. Nên bậc Thánh hoặc nói ta liễu liễu kiến, hoặc nói chẳng kiến, chỉ là tùy bệnh phá chấp mà nói kiến và chẳng kiến, kỳ thật Diệu-lý của Chơn-nhất lìa kiến và chẳng kiến, siêu việt Thánh-phàm và số lượng, nên được liễu liễu kiến, chẳng phải hư vọng. Vì chẳng phải sắc pháp nên Nhục-nhãn chẳng thể kiến; vì chẳng phải pháp chứng nên Pháp-nhãn chẳng thể kiến, chỉ có Phật-nhãn trong sạch, phi kiến phi bất kiến, nên liễu liễu kiến, chẳng thể suy lường, chẳng thể so đo; phàm phu thì tuyệt phần, Nhị-thừa chỉ được ít phần, Bồ-tát được thấy hết mà mơ hồ, nên biết Phật-tánh khó thấy vậy.

Mặc dù như thế, Kinh nói "Phật-tánh phổ biến, chẳng kể Thánh-phàm". Người học Đạo chỉ cần thể-cứu Chơn-nhất nơi tự thân, đâu cần tìm kiếm bên ngoài?Nếu dụng công ngày đêm chẳng ngừng, cuối cùng sẽ được tự chứng ngộ, nên Kinh nói "Quán thân thật tướng, quán Phật cũng vậy". Quán thân thật tướng tức là Nhất-tướng. Nhất-tướng tức không tướng, không tướng chẳng tướng nên phi dơ phi sạch, phi phàm phi Thánh, phi hữu phi vô, phi tà phi chánh, Thể-tánh thường trụ, chẳng sanh chẳng diệt tức là Bản-tế.

Lục Căn của Như-lai tại sao hỗ dụng lẫn nhau ? Vì liễu ngộ Chơn-nhất, chẳng số lượng, chẳng ngằn mé thì Pháp-thân trống rỗng, tất cả vô ngại; lục Căn của phàm phu tại sao chẳng được hỗ dụng lẫn nhau ? Vì có vọng  tưởng phân biệt, mỗi căn ngăn cách với nhau, tinh thần có giới hạn, thành có ngằn mé, vì mê muội Chơn-nhất, nên chẳng được hỗ dụng. Nên Kinh nói "Phàm phu vì có vọng tưởng, mê hoặc chẳng thông, chấp trước Căn-trần nên có đủ thứ sai biệt, bậc Thánh thông đạt Chơn-nhất, chẳng có vọng tâm ngăn cách Căn-trần, tâm chẳng số lượng nên được đồng dụng".

Sao gọi là Chơn-nhất ? Chơn thì chẳng dị, chẳng dị nên vạn vật hàm Nhất mà sanh. Nói vạn vật cũng là Nhấtvậy. Tại sao ? Vì bản thể vốn Nhất, Nhất tức là bất nhị, cũng như cây trầm là cây trầm, chẳng phải cây cọc. Chơn-nhất có đủ thứ tên gọi, dù có đủ thứ tên gọi, đều đồng một nghĩa, hoặc gọi Pháp-tánh, hoặc gọi Pháp-thân, cho đến Chơn-như, Thực-tế, Hư-không, Phật-tánh, Niết-bàn, Pháp-giới, Bản-tế, Như-lai-tạng...vô lượng tên gọi đều là biệt danh của Chơn-nhất, cùng là một nghĩa. Nghĩa lý của ba phẩm này đều như thế.

Sao gọi là phẩm Quảng Chiếu ? Vì sự chiếu soi của Đại-Trí mênh mông khắp nơi, như huệ nhựt viên chiếu, bao hàm vật lý, soi thấu vạn linh, nên gọi Quảng Chiếu. Sao gọi là phẩm Ly Vi ? Vì Tự-tánh gồm sẵn Chơn-ly, cùng tột nguồn gốc nhiệm mầu, Thật-tế trống rỗng, vốn tịnh chẳng nhiễm, nên gọi Ly Vi. Sao gọi là phẩm Bản-tế ? Vì Diệu-lý thiên chơn, Bản-thể sáng soi, chẳng do tu mà thành, tánh vốn trống rỗng mà sẵn đủ vạn vật, nên gọi Bản-tế vậy.

Tự-tánh bất nhị, thuyết lý dù chia ba Phẩm, hợp lại chỉ là một Nghĩa. Dù một nghĩa mà có sự dụng vô cùng, tổng danh Thật-tạng là để bàn luận căn nguồn của tánh nhận vật, xiển dương ý nghĩa sum la, trống rỗng thấu triệt Thái-thanh, âm thầm khế hiệp Diệu-lý. Kẻ biết được sẵn đầy đủ thì tự Thể khế hợp Chơn-nhất, kẻ liễu ngộ thì huyền-chỉ tự thông, nên lập Luận để tỏ rõ lý Như-như của Pháp-giới, hiển bày Pháp-yếu của Đại-đạo vậy. 

=> Phần 1,
=> Phần 2./.

Tác giả bài viết: Liễu Phàm

Nguồn tin: Tông Phong Tàng Thư

Theo dòng sự kiện

Xem tiếp...

Những tin cũ hơn